Mục lục bài viết
Update: 2022-01-18 15:35:07,Bạn Cần tương hỗ về Cho biết vì sao bài thơ được định hình và nhận định như thể bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của việt nam viết bằng thơ. Bạn trọn vẹn có thể lại Thảo luận ở cuối bài để Admin đc tương hỗ.
Nam quốc sơn hà (chữ Hán: 南國山河) là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt viết bằng văn ngôn không rõ tác giả (tuy nhiên 1 số ít nguồn nhận định rằng Lý Thường Kiệt là người viết ra), sẽ là bản Tuyên ngôn độc lập thứ nhất của Việt Nam, xác lập độc lập của nhà cầm quyền Đại Việt trên những vùng đất của tớ.[1][2] Bài thơ này còn có tác dụng khuyến khích tinh thần quân sĩ, giúp Lê Hoàn chống quân Tống năm 981[3] và Lý Thường Kiệt chống quân Tống năm 1077. Trong văn hóa truyền thống, ý nghĩa và giá trị của bài thơ trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam được người Việt công nhận rộng tự do.[4]
Tóm lược đại ý quan trọng trong bài
Nam quốc sơn hàThất ngôn tứ tuyệtThông tin tác phẩmTên gốcKhông cóTác giảKhông rõThời gian sáng tác981Triều đại sáng tácNhà Tiền LêQuốc giaViệt NamNgôn ngữVăn ngônThể loạiThất ngôn tứ tuyệtTên ViệtSông núi nước NamWikisourceNam quốc sơn hà
Bài thơ này vốn không mang tên, tên thường gọi Nam quốc sơn hà là vì những người dân biên soạn cuốn sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, tập 2 (sách do Nhà Xuất bản Văn học xuất bản năm 1976) đưa ra, lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ thứ nhất của bài thơ này (Nam quốc sơn hà Nam đế cư).[5]
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về:
Nam quốc sơn hà Nam quốc sơn hà
Bài thơ Nam quốc sơn hà có tối thiểu là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích. Thư tịch thứ nhất có chép bài thơ này là sách Việt điện u linh tập, tuy nhiên bản Nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản được nghe biết nhiều nhất, bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư mới là bản được nhiều người biết nhất. Đại Việt sử ký toàn thư là bộ chính sử thứ nhất có ghi chép bài thơ này.[6][7][8]
Bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau:[9]
南國山河南帝居
截然分定在天書
如何逆虜來侵犯
汝等行看取敗虚
Phiên âm Hán Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bản dịch nghĩa của Nguyễn Tri Tài:[10]
Sông núi nước Nam, vua nước Nam ở,
Phân vị rạch ròi đã ghi trong sách trời.
Cớ sao lũ giặc bạo ngược đến xâm phạm,
Chúng bây rồi xem, sẽ chuốc lấy thất tại tan tành.
Bản dịch nghĩa của Nguyễn Hùng Vĩ:[11]
Sông núi nước Nam, Nam đế quản trị
Hiển nhiên đã định phận tại thiên thư
Cớ sao bọn giặc ngỗ ngược đến xâm phạm
Mà chúng bay, xem ra, lại chịu bại ư?
Bản dịch của Trần Trọng Kim
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Hiện nay, sơ bộ thống kê đã thấy có tầm khoảng chừng 30 dị bản bài thơ Nam quốc sơn hà nằm trong những văn bản Hán Nôm chép tay hoặc khắc gỗ. Cụ thể là 8 bản Việt điện u linh, 10 bản Lĩnh Nam chích quái:[12], Thần phả đền cửa sông Ngũ Huyện (Quả Cảm, Hoà Long, Yên Phong, Bắc Ninh), Biển khắc bài thơ Nam quốc sơn hà ở Phù Khê Đông (Tiên Sơn, Bắc Ninh), Trương tôn thần sự tích, Thiên Nam vân lục liệt truyện, Dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí; Bằng trình thản bộ.[13]
Xem thêm: Chiến tranh Tống – Việt, 981
Theo sách Lĩnh Nam chích quái:[14]
Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành; Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cất quân xâm lược nước Nam. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành mộng thấy hai anh thần nhân ở trên sông vái mà nói rằng họ là Trương Hống, Trương Hát xưa theo Triệu Việt Vương; nay xin cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh. Vua Lê Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt và lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, thần nhân tàng hình trên không, lớn tiếng ngâm rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại Vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn, hai là Khước Mẫn Đại vương lập miếu ở ngã ba sông Như Nguyệt.
Đa số những nhà nghiên cứu và phân tích thống nhất đề tên khuyết danh tác giả bài thơ. Riêng Lê Mạnh Thát trong bài “Pháp Thuận và bài thơ thần nước Nam sông núi” nhận định rằng tác giả bài thơ là Đỗ Pháp Thuận.
Các nhà nghiên cứu và phân tích mới gần đây thống nhất quan điểm Nam quốc sơn hà là bài thơ xuất hiện dưới thời Lê Đại Hành và tiếp tục được Lý Thường Kiệt vận dụng sau này.[a][15][16]
Sông Như Nguyệt (sông Cầu)
Xem thêm: Trận Như Nguyệt
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư
Năm 1076, Quách Quỳ, Triệu Tiết đem quân 9 tướng, thích phù hợp với Chiêm Thành, Chân Lạp tiến công Đại Việt. Hai bên giao tranh ở sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ chợt nghe trong đền Trương tướng quân[17] có tiếng đọc to rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Sau này đúng như lời thơ, Lý Thường Kiệt vượt mặt quân Tống.[18][19]
Theo sách Việt điện u linh Chuyện Trương Hống và Trương Hát
Thời Nam Tấn Vương nhà Ngô đi đánh dẹp Lý Huy ở Long Châu, đóng quân ở cửa Phù Lan, đêm ngủ mộng thấy hai người kỳ vĩ, diện mạo khôi ngô đến trình làng nhà vua và xin trợ chiến. Nhà vua hỏi danh tính, họ vấn đáp rằng họ là bạn hữu vốn người Phù Lan, làm tướng của Triệu Việt Vương, Việt Vương bị Lý Nam Đế (Hậu Lý Nam Đế) vượt mặt. Nam Đế làm lễ trọng ý muốn cho họ làm quan; hai bạn hữu chối từ, trốn vào núi Phù Long, Nam Đế nhiều lần cho những người dân truy nã không được, mới treo ngàn vàng cầu người bắt. Hai bạn hữu đều uống thuộc độc mà chết. Thượng đế thương họ vô tội cho làm Than Hà Long Quân Phó Sứ, tuần hai sông Vũ Bình và Lạng Giang đến tận trên nguồn, hiệu là Thần Giang Phó Đô Sứ. Trước kia đã hỗ trợ vua Ngô Quyền trong chiến dịch Bạch Đằng.
Nam Tấn Vương tỉnh dậy mới đem tế và khấn thần phò trợ. Sau đó Nam Tấn Vương thắng trận, bình xong quân Tây Long vua sai sứ chia chỗ lập đền thờ, đều phong làm Phúc Thần một phương, chiếu phong anh là Đại Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Như Nguyệt. Còn em là Tiểu Đương Giang Đô Hộ Quốc Thần Vương, lập đền ở cửa sông Nam Bình.
Thời vua Nhân Tông nhà Lý, binh Tống nam xâm kéo đến biên cảnh; vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt dựa bờ sông đóng cừ để cố thủ. Một đêm kia quân sĩ nghe trong đền có tiếng ngâm to rằng:
Sông núi nhà Nam Nam đế ở
Phân minh trời định tại thiên thư.
Cớ sao nghịch lỗ sang xâm phạm
Bọn chúng rồi đây sẽ bại hư.
Quả nhiên quân Tống chưa đánh đã tan rã. Thần mộng rõ ràng, mảy lông sợi tóc chẳng sai.[20]
Theo Bửu Diên Nguyễn-Phúc, Thị Hoàng Anh Phạm (2003)
Năm 1076, hơn 30 vạn quân nhà Tống (Trung Quốc) do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược Đại Việt (tên nước Việt Nam thời đó). Lý Thường Kiệt lập phòng tuyến tại sông Như Nguyệt (sông Cầu) để chặn địch. Quân của Quách Quỳ đánh đến sông Như Nguyệt thì bị chặn.[21] Nhiều trận quyết chiến ác liệt đã xẩy ra tại đây nhưng quân Tống không sao vượt được phòng tuyến Như Nguyệt, đành đóng trại chờ viện binh tương hỗ. Đang đêm, Lý Thường Kiệt cho những người dân vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở phía nam bờ sông Như Nguyệt, giả làm thần đọc vang bài thơ trên.[22] Nhờ thế tinh thần binh sĩ lên rất cao. Lý Thường Kiệt liền cho quân vượt sông, tổ chức triển khai một trận quyết chiến, đánh thẳng vào trại giặc. Phần vì bất thần, phần vì sĩ khí quân Đại Việt đang lên, quân Tống chống đỡ yếu ớt, số bị chết, bị thương đã hơn quá nửa. Lý Thường Kiệt liền cho những người dân sang nghị hòa, mở đường cho quân Tống rút quân về nước, giữ vững bờ cõi nước Đại Việt.
Trong câu thơ cuối của bài thơ Nam quốc sơn hà có đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số nhiều “nhữ đẳng” 汝等. Trong những bản dịch thơ của bài thơ này từ nhữ đẳng đều được dịch là chúng bay hoặc chúng mày. Theo Nguyễn Hùng Vĩ và Nguyễn Sơn Phong “nhữ đẳng” 汝等 trong câu thơ cuối của bài thơ Nam quốc sơn hà là chỉ quân Đại Việt, đối tượng người tiêu dùng của bài thơ là quân Đại Việt, không phải quân Tống, ý của hai câu thơ cuối của bài thơ là tại sao quân giặc đến xâm phạm mà những ngươi (quân Đại Việt) lại cam lòng chịu thất bại.[11][23][24]
Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:[25]
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim từng được đưa vào trong sách giáo khoa trung học của học viên Việt Nam nhưng tiếp sau này đã biết thành vô hiệu bỏ. Theo Trương Phan Việt Thắng bản dịch thơ của Trần Trọng Kim bị vô hiệu bỏ khỏi sách giáo khoa trọn vẹn có thể là vì yếu tố chính trị, Trần Trọng Kim là “một trí thức không thuộc phe cách mạng, là Thủ tướng “nhà nước bù nhìn””[26][27].Tuy nhiên, bản dịch nó lại là bản được nổi tiếng nhất vì có vần điệu dễ nhớ, được phổ cập rộng tự do.[28]
Bản dịch thơ của Lê Thước và Nam Trân:[25]
Núi sông Nam Việt vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Bản dịch thơ trên của Lê Thước và Nam Trân được đưa vào trong sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1 do Nhà Xuất bản Giáo dục đào tạo Việt Nam xuất bản năm 2003 (sách được tái bản nhiều lần tiếp sau đó) nhưng những người dân biên soạn sách giáo khoa Ngữ văn 7 đang không dẫn lại đúng nguyên văn bản dịch thơ của Lê Thước và Nam Trân mà sửa câu đầu của bản dịch thơ từ Núi sông Nam Việt vua Nam ở thành Sông núi nước Nam vua Nam ở.[25]
Theo ông Nguyễn Khắc Phi, Tổng chủ biên sách giáo khoa Ngữ văn 7, tập 1, toàn thể hội đồng biên soạn sách đã nhất trí sửa lại câu thơ đầu trong bản dịch thơ của Lê Thước và Nam Trân vì “việt nam chưa lúc nào có quốc hiệu Nam Việt”. Cũng theo ông Phi “Nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa ở việt nam cũng như quốc tế, được cho phép người biên soạn có quyền sửa chữa thay thế cho thích hợp nội dung”.[29]
Ông Phạm Văn Tuấn (nhân viên cấp dưới Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nhận định rằng việc những người dân biên soạn sách Ngữ văn 7, tập 1 sửa lại bản dịch thơ của Lê Thước và Nam Trân là việc làm không đúng, không trang trọng, không khoa học. Đã dẫn thì phải dẫn đúng nguyên văn, dẫn sai là không tôn trọng tác giả của bản dịch thơ, không tôn trọng người đọc, người học. Những người biên soạn đang không dẫn đúng nguyên văn bản dịch thơ của Lê Thước và Nam Trân, không ghi ai là người đã sửa câu Núi sông Nam Việt vua Nam ở thành Sông núi nước Nam vua Nam ở. Theo ông Tuấn những người dân biên soạn sách nếu không thể dẫn đúng nguyên văn bản dịch thơ của người khác thì nên tự mình dịch.[30]
Bản dịch thơ của Nguyễn Tri Tài:[10]
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Sách trời định phận đã rõ ràng
Cớ sao giặc dữ dám xâm phạm
Chờ đấy loài bây sẽ nát tan.
Reply
3
0
Chia sẻ
– Một số Keyword tìm kiếm nhiều : ” Review Cho biết vì sao bài thơ được định hình và nhận định như thể bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của việt nam viết bằng thơ tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Cập nhật Cho biết vì sao bài thơ được định hình và nhận định như thể bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất của việt nam viết bằng thơ “.
Bạn trọn vẹn có thể để lại Comments nếu gặp yếu tố chưa hiểu nhé.
#Cho #biết #vì #sao #bài #thơ #được #coi #như #là #bản #tuyên #ngôn #độc #lập #đầu #tiên #của #nước #viết #bằng #thơ