Mục lục bài viết
Cập Nhật: 2022-04-07 00:23:14,Bạn Cần tương hỗ về Đường lối đúng đắn của nhà Trần khi tổ chức triển khai chiến đấu chống quân Mông – Nguyên. Bạn trọn vẹn có thể lại Thảo luận ở phía dưới để Ad đc lý giải rõ ràng hơn.
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 3 (Theo phong cách gọi khác ở Việt Nam là Kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ 3) là trận cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt trình làng trên lãnh thổ Đại Việt từ thời gian tháng 12 năm 1287 đến thời gian cuối thời điểm tháng bốn năm 1288.
Tóm lược đại ý quan trọng trong bài
Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần thứ IIIThời gian1287-1288Địa điểm
Bắc Việt Nam
Kết quả
Quân Đại Việt toàn thắng,
Quân Mông Nguyên phải rút lui khỏi Đại ViệtTham chiến
Nhà Trần (Đại Việt)
Đế quốc Mông CổChỉ huy và lãnh đạo
Trần Thánh Tông
Trần Nhân Tông
Trần Quốc Tuấn
Trần Quang Khải
Trần Nhật Duật
Trần Khánh Dư
Phạm Ngũ Lão
Trần Gia
Nguyễn Khoái
Nguyễn Thế Lộc
Trần Ngạc
Đỗ Hành
Thoát Hoan
Ariq Qaya (A Lý Hải Nha)
Ô Mã Nhi
Ayuruychi (Áo Lỗ Xích)
Phàn Tiếp
Tích Lệ Cơ
Yiymis (Diệc Hắc Mê Thất)
Ariq Qusun (A Lý Quy Thuận)
Abaci (A Bát Xích)
Ali (A Lý)
Trình Bằng Phi
Aruq (Ái Lỗ)
Trương Ngọc †
Lưu Khuê
Trương Quân †
Siktur (Tích Đô Nhi)
Trương Văn Hổ
Phí Củng Thìn
Đào Đại Minh
Trần Trọng Đạt
Tạ Hữu Khuê
Bồ Tý Thành
Trần Ích Tắc
Lê TắcLực lượng
Khoảng 200.000 – 300.000[1]
Khoảng 300.000 – 500.000[1]Thương vong và tổn thất
Không rõ
Không rõ
Đại Việt lại một lần nữa đẩy lui được cuộc xâm lăng của Nguyên Mông. Sau này, giữa nhà Trần và nhà Nguyên không phát sinh thêm trận cuộc chiến tranh nào và đây được sử sách nhìn nhận là trận chiến ở đầu cuối giữa hai bên.
Sau thất bại trong việc chinh phạt Đại Việt năm 1285, nhà vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt vẫn không từ bỏ kế hoạch chiếm Đại Việt. Gần như ngay lập tức, kế hoạch tái chinh phạt được hoạch định. Ngày 21 tháng 8 năm 1285, Khu mật viện nhà Nguyên trình đề xuất kiến nghị tái chiến với Đại Việt
Giữa tháng hai năm 1286, Hốt Tất Liệt lệnh cho Ariq Qaya bàn kế hoạch đánh Đại Việt. Đầu tháng 3, list những chỉ huy quân Nguyên tham gia được phê duyệt. Giữa tháng 3, việc điều động binh lính khởi đầu và đồng thời một dự án bất Động sản khu công trình xây dựng đóng 300 tàu chiến được khởi công.
Tuy nhiên, do những cuộc khởi nghĩa của nhân dân Trung Quốc nổ ra khắp nơi ở miền Nam Trung Quốc, nên vào tháng 6 năm 1286 vua Nguyên ra lệnh hoãn việc chinh phạt Đại Việt. Đến thời gian ở thời gian cuối năm 1286, việc sẵn sàng chinh phạt Đại Việt được tái khởi động.[2]
Theo kế hoạch mà Hốt Tất Liệt đưa ra vào tháng 3 năm 1286, lực lượng Nguyên chinh phạt Đại Việt vẫn sẽ do Thoát Hoan làm tổng tư lệnh. A Lý Hải Nha làm phó tổng tư lệnh. Các chỉ huy thời thượng khác gồm Áo Lỗ Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp (tướng người Hán của nhà Nguyên), Diệp Hắc Mê Thất, A Lý Quỹ Thuận,… Sau đó, tháng 11 năm 1286, A Bát Xích, A Lý, Trình Bằng Phi (tướng người Hán của nhà Nguyên), Ái Lỗ, Trương Ngọc, Lưu Khuê, Tích Đô Nhi, Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn, Đào Đại Minh (những tên cướp biển người Hán làm tướng nhà Nguyên), Trần Trọng Đạt, Tạ Hữu Khuê, Bồ Tý Thành cũng rất được điều động. Phần lớn những tướng lĩnh này đều đã từng tham gia chinh phát Đại Việt năm 1285.[3] A Lý Hải Nha qua đời ngày 18 tháng 6 năm 1286, và Áo Lỗ Xích được cử làm phó cho Thoát Hoan.
Theo Nguyên sử, ngoài việc kêu gọi lại những quân lính trong lần chinh phạt thứ hai thoát được về Trung Quốc, nhà Nguyên còn kêu gọi thêm 7 vạn quân Mông Cổ và Hán của ba tỉnh Giang Hoài, Giang Tây, Hồ Quảng, 1.000 quân nhà Nam Tống cũ đầu hàng theo Nguyên, 6.000 quân của Vân Nam, 15.000 quân người Lê ở Hải Nam, ngoài ra còn quân người dân tộc bản địa ở Quảng Tây. Số quân kêu gọi thêm mà Nguyên sử ghi là 92.000, chưa tính số quân người Choang không được ghi rõ. An Nam chí lược ghi tổng số quân là 10 vạn, nhưng khi vào đến Đại Việt hội binh thì lại ghi có 50 vạn. Đại Việt sử ký Toàn thư ghi số quân Nguyên là 50 vạn. Về thủy quân, quân Nguyên có 700 thuyền chiến mới đóng cùng 120 thuyền chiến của Hải Nam đều đặt dưới sự chỉ huy của Ô Mã Nhi. 100 thuyền vận tải lối đi bộ chở 17 vạn thạch lương do Trương Văn Hổ chỉ huy đi cùng Ô Mã Nhi.[4]
Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược nhận định rằng số quân Nguyên khoảng chừng 30 vạn và Trần Xuân Sinh trong Thuyết Trần nhận định rằng số lượng này tựa như An Nam chí lược ghi khi quân Nguyên hội binh, là gần với việc thực, vì ngoài số quân mới kêu gọi còn số quân trở về từ thất bại năm 1285 được điều động quay trở lại Đại Việt.[1]
Rút kinh nghiệm tay nghề từ thất bại lần trước, quân Nguyên trang bị hai hạm thuyền lớn. Hạm đội tải lương dưới quyền của Trương Văn Hổ, chở theo 17 vạn thạch lương (có sách chép 70 vạn) để giúp đảm bảo phục vụ hầu cần cho quân Nguyên, giảm sút sự lệ thuộc vào việc tải lương lối đi bộ vốn rất trở ngại và tốn nhiều nhân lực. Hạm đội chiến đấu gồm có cả thảy hơn 600 con thuyền dưới quyền chỉ huy của Ô Mã Nhi, với hàng vạn thủy quân tinh nhuệ nhất của nước Nguyên là những sắc quân người Lê hòn đảo Hải Nam, quân Tân Phụ miền Giang Nam. Hạm đội của Ô Mã Nhi có trách nhiệm đánh mở đường và hộ tống đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, đồng thời sẽ là một lực lượng quan trọng để phá vỡ ưu thế thủy chiến của quân Đại Việt. Lần xâm lược này, quân Nguyên có tổng quân số thấp hơn lần trước, nhưng thủy quân được tăng cường mạnh mẽ và tự tin hơn rõ rệt. Gần sát ngày tiến quân, Hốt Tất Liệt còn đích thân ra chỉ dụ căn dặn những tướng: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”.
Phía Đại Việt đã tiến hành tổng động viên. Lần này lãnh đạo là Trần Nhân Tông. Tướng chỉ huy toàn bộ quân đội là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Tổng số quân nhà Trần khoảng chừng 32 vạn[1] (số lượng này còn có lẽ rằng tính gộp cả quân nòng cốt lẫn quân địa phương và dân binh)
Trần Nhân Tông đại xá thiên hạ, chỉ trừ những người dân từng hàng quân Nguyên đều không được đại xá. Nhiều tù nhân được tha, tình nguyện tòng quân ra mặt trận để báo ơn.
Trần Quốc Tuấn với những kinh nghiệm tay nghề tác chiến thu được sau khoản thời hạn vượt mặt quân Nguyên hai năm trước đó, sau khoản thời hạn phân tích tình hình quân Nguyên, đã tự tin tâu với vua Trần: “Thế giặc trong năm này dễ phá”
Ngày 3 tháng 9 âm lịch, Thoát Hoan khởi binh từ đất Ngạc tiến về phía nam, mượn tiếng đưa “An Nam quốc vương” Trần Ích Tắc về nước. Quân Nguyên chia thành 3 cánh:
Phía Đại Việt, Trần Quốc Tuấn thống lĩnh những vương hầu chia quân chống giữ những nơi. Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Khoái mang 3 vạn quân giữ Lạng Sơn;[5] Lê Phụ Trần[cần dẫn nguồn] mang 3 vạn quân vào giữ Thanh – Nghệ; Trần Khánh Dư giữ Vân Đồn; tự Trần Quốc Tuấn đóng binh ở Quảng Yên. Mặt khác, Hưng Đạo Vương sai quân biên giới giáp châu Tư Minh, chia ra đóng những đồn Sa, Từ, Trúc để chống bộ binh địch xâm nhập; lại sai một tướng khác ra giữ Bình Than.
Cánh quân Nguyên nòng cốt do Thoát Hoan và Áo Lỗ Xích chỉ huy triệu tập tại Tư Minh vào trong thời gian ngày 18 tháng 12 năm 1287 và khởi nguồn vào lãnh thổ Việt Nam ngày 25 tháng 12 năm 1287. Tiến tới Lộc Châu (Lộc Bình, Lạng Sơn) ngày 29 tháng 12 thì Thoát Hoan chia quân làm 2 mũi, một mũi do Trình Bằng Phi và Bột Đa Cáp Đáp Nhĩ chỉ huy có một vạn quân người Hán đi từ Vĩnh Bình tới Chi Lăng và một mũi nữa gồm số quân còn sót lại đi từ Lộc Bình tới Sơn Động; lưu 2500 quân ở lại vận lương, vũ khí và binh phục.
Ngả quân bộ do Aí Lỗ, A Thai và Mãng Cổ Đái chỉ huy từ Vân Nam tiến vào lãnh thổ Đại Việt còn sớm hơn hết ngả chính; ngày 11 tháng 12 đã đi đến Bạch Hạc.
Thủy quân của Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy xuất phát từ Khâm Châu tiến về vùng bờ biển Đông Bắc của Đại Việt. Ngày 17 tháng 12 năm 1287, lực lượng chiến đấu chính do Ô Mã Nhi chỉ huy tách khỏi lực lượng vận tải lối đi bộ lương thực, vài ngày sau thì tiến vào cửa biển Vạn Ninh (Móng Cái) từ đó đi ven bờ tiến tới cửa sông Bạch Đằng và theo sông này tiến vào Vạn Kiếp.
Gần như ngay lúc đặt chân vào đất Đại Việt, quân Nguyên và quân Đại Việt đã giao chiến với nhau. Quân từ Vân Nam của Ái Lỗ giao chiến với 4 vạn quân của Trần Nhật Duật tại Bạch Hạc và giành thắng lợi, thu được một số trong những thuyền và giết được Lê Thạch và Hà Anh của Đại Việt.
Các mũi quân của Thoát Hoan vừa qua sông biên giới, Trình Bằng Phi mang quân Hán tiến vào phía Lạng Châu và Lão Thử (Chi Lăng). Nguyên sử chép rằng cánh quân này thắng liền 17 trận, lấn chiếm những đồn Hãm Sa, Tư Trúc.[5] Mũi nhánh thứ hai của Thoát Hoan có Thoát Hoan đi cùng vượt qua ải Khả Lý. Đến thời gian đầu xuân mới 1288 thì đóng ở kênh Mao La.
Lực lượng thủy quân Nguyên không tiến vào Thanh – Nghệ rồi đánh ngược ra giống lần trước như nhà Trần dự tính vì đã biết quân Trần đề phòng, trái lại tiến thẳng vào miền bắc nước ta để hợp binh với Thoát Hoan. Khi Ô Mã Nhi tiến tiến đến Quảng Yên thì giao chiến với quân của tướng Đại Việt là Trần Gia tại vụng Đa Mỗ (mũi Ngọc, Móng Cái). Trần Gia nỗ lực chống lại, chiếm hữu được một số trong những thuyền và đánh đắm vài thuyền lương thứ nhất. Phía Trần Gia cũng trở nên chết vài trăm người[6] và thế yếu hơn, ở đầu cuối phải rút lui.
Thoát Hoan nghe tin báo lương thực bị hãm, liền lệnh cho những tướng đi cướp được một số trong những lương thực của Đại Việt để dùng.
Đầu tháng chạp âm lịch, quân Trần tại khắp những đồn ải ở biên giới Lạng Sơn chống đỡ không nổi phải rút lui; một số trong những nơi khác nghe tin thanh thế quân Nguyên quá rộng phải bỏ đồn rút trước lúc quân Nguyên đến nơi.[6]
Quân Trần yếu thế, lại bị quân Nguyên cướp lương, nên lui về Vạn Kiếp để bảo toàn lực lượng. Trần Gia tuy thắng được tiền quân thuỷ một trận nhỏ nhưng tiền quân thuỷ của Phàn Tiếp vẫn tiến được qua sông Bạch Đằng vào Bắc Giang. Trần Quốc Tuấn sắp xếp quân ra chặn ở sông nhưng không cản nổi. Phàn Tiếp gặp được quân bộ của Thoát Hoan.
Thoát Hoan chia quân lấn chiếm núi Phả Lại và núi Chí Linh (Thành Phố Hải Dương), lập trại vững chãi để bố phòng.
Trình Bằng Phi tiến đánh trại Phù Sơn, quân Trần dùng tên độc giết nhiều quân Nguyên nhưng tiếp sau đó Bằng Phi được tiếp viện, lại quay trở lại đánh. Quân Trần rút lui.
Đầu tháng một năm 1288, hai cánh quân của Thoát Hoan và Trình Bằng Phi hợp lại tại Vạn Kiếp. Dọc đường từ Lộc Châu đến Vạn Kiếp, cánh Trình Bằng Phi đã giao chiến với quân Đại Việt 17 trận, còn cánh của Thoát Hoan chỉ gặp sự kháng cự yếu ớt. Lực lượng Đại Việt tại Vạn Kiếp rất ít và đã rút lui về Thăng Long.
Thoát Hoan chiếm lấy Vạn Kiếp làm địa thế căn cứ đầu não, để ở đây 2 vạn quân, dựng thành gỗ trên núi ở Chí Linh và Phả Lại. Từ đây, quân Nguyên đánh rộng ra xung quanh và tiến về Thăng Long.
Tại mặt trận tây-bắc, đạo quân của Aí Lỗ từ Vân Nam theo dòng sông Thao và sông Lô đánh xuống. Quân của những chủ trại Tuyên Quang ra đánh chặn không nổi. Trần Nhật Duật vốn giữ mặt trận Lạng Sơn, sợ địch vào sâu bèn ra đóng ở Bạch Hạc để ngăn quân Aruq. Hai bên giao chiến toàn bộ 18 trận và cùng bị thiệt hại. Hai tướng nhà Trần là Hà Anh và Lê Thạch bị quân Nguyên bắt giết.
Cuối cùng Trần Nhật Duật thua chạy. Ái Lỗ tiến vào Thăng Long.
Xem thêm: Lê Tắc
Khi đạo quân nòng cốt Thoát Hoan cùng “An Nam quốc vương” Trần Ích Tắc tiến vào Thăng Long thì lực lượng hậu đội do những tướng người Việt đuổi theo Nguyên là Lê Tắc cùng Lê An mang 5000 quân hộ tống con Trần Ích Tắc là Trần Dục mới 9 tuổi kéo theo sau quân Nguyên, đúng đường Thoát Hoan đã đi.[7]
Tuy không gặp phải sự ngăn cản của quân nòng cốt nhà Trần nhưng cánh quân Lê Tắc lại bị sự phục kích của tướng người Tày là Nguyễn Thế Lộc tại cửa ải Nội Bàng. Quân Nguyên bị tổn hại nhưng vẫn tiến qua được biên giới. Nguyễn Thế Lộc bủa vây, Lê Tắc nhờ vào sông Lục Nam bày trận chống lại.[7] Thế Lộc để chừa lại hướng phía bắc, vây 2 mặt kẹp lại. Lê Tắc và Lê An không chống nổi, phải theo phía bắc để ngỏ chạy trở lại biên giới. Thế Lộc tung quân đuổi theo. Lê An bế Trần Dục đi con ngựa gầy chạy chậm, bị quân Trần đuổi sát. Lê Tắc vội quay ngựa lại, nhường ngựa tốt mình đang cưỡi cho Lê An ôm Dục chạy trước. Cuối cùng cánh quân Nguyên này chỉ từ không đầy 100 người, chạy thoát về châu Tư Minh đúng ngày Tết nguyên đán năm Mậu tý (1288).[8]
Lê Tắc thuộc đường nên dẫn bọn Vạn hộ Đạt, Thiên hộ Tiêu, Nguyễn Lĩnh, Lê Yến, Trần Dục… cùng khoảng chừng 60 kỵ binh còn sót lại đêm ngày chạy trốn về nước Nguyên. Đám tướng người Việt cùng tàn binh bày tiệc ăn Tết và ăn mừng thoát chết. Lê Tắc tự ghi trong hồi ký của tớ: “Chật vật hiểm nghèo, muôn phần chắc chết. Ngày chạy mấy trăm dặm, từ nửa đêm đến tảng sáng đến châu, vọng bái cửa khuyết, mừng tết năm Mậu Tý”.
Cuối tháng 1, quân Nguyên khởi đầu tiến đánh Thăng Long. Cánh quân Vân Nam của Aruq gặp đại quân Thoát Hoan ở bờ sông Hồng gần Thăng Long.
Ngày 2 tháng hai năm 1288, quân Nguyên khởi đầu đánh thành. Trần Quốc Tuấn dàn quân cố thủ. Quân Trần nấp trong thành bắn tên đạn ra. Quân Nguyên vây hãm tiến công vài lần không tồn tại kết quả. Trần Quốc Tuấn sai Trần Cao vài lần đến trại Thoát Hoan xin giảng hoà, nhưng đêm hôm thường lấy ra từng toán nhỏ đánh lén vào trại quân Nguyên, đốt phá lương thực rồi rút lui. Thoát Hoan điều quân ra ngoài truy kích, nhưng quân Trần thường ẩn nấp khó phát hiện ra.[9]
Trong những cuộc xung đột quanh kinh thành, tướng Trần Ngạc (tông thất nhà Trần) bị trúng tên tử trận.
Sau khi thấy cầm chân quân Nguyên đã đủ lâu, Trần Quốc Tuấn rút về kinh thành, sai tướng rước vua Trần lui xuống hạ lưu sông Hồng rồi theo cửa Giao Thủy đi ra biển vòng lên Tháp Sơn (Đồ Sơn). Sau đó bị cánh quân Nguyên của Ô Mã Nhi đuổi quá gấp, thượng hoàng Thánh Tông và Nhân Tông phải xuống thuyền vào Thanh Hóa. Ô Mã Nhi mang vài chục thuyền và ít lương đuổi gấp theo, nhưng nghe tin có Lê Phụ Trần[cần dẫn nguồn] cầm một đạo thuỷ quân lớn đã phòng ở Thanh Hoá, liệu thế không đánh nổi đành quay trở lại. Qua Long Hưng, Ô Mã Nhi bực tức sai phá lăng Trần Thái Tông.[9]
Thoát Hoan sai Ô Mã Nhi truy đuổi những vua Trần. Ô Mã Nhi sai bắn tin với vua Trần rằng: “Ngươi chạy lên trời ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất ta theo xuống đất, ngươi trốn lên núi ta theo lên núi, ngươi lặn xuống việt nam theo xuống nước”.[10]
Vua Trần Nhân Tông cùng Thượng hoàng Trần Thánh Tông đem một hạm đội vào Thanh Hóa. Nhờ có thuyền bè nhiều và nhanh nhẹn, quân Đại Việt trọn vẹn có thể thuận tiện và đơn thuần và giản dị chia quân tùy thích để chốt giữ những đồn trại, một phần trong số đó là để đánh lạc hướng, làm nhiễu thông tin trinh sát của địch. Theo Nguyên sử ghi chép thì quân Nguyên “thắng trận liên tục” ở Cá Trầm, Cá Lê, Man San, Ngụy Trại (những địa điểm chép theo Nguyên sử, không rõ vị trí rõ ràng), nhưng thực ra những trận này chỉ đụng phải những lực lượng nghi binh của nhà Trần.
Các tài liệu dẫn về trận Thăng Long chưa trọn vẹn thống nhất. Khâm định Việt Sử Thông giám Cương mục, Việt Sử tiêu án và Việt Nam sử lược chỉ nêu Thoát Hoan vây đánh nhưng không hạ được thành; Đại Việt Sử ký Toàn thư không chép trận Thăng Long. Một số sách sử Việt Nam tân tiến nhận định rằng quân Trần bỏ thành rút lui.[11] Quân Nguyên lọt vào kinh thành, nhưng tiếp sau đó đụng độ kịch liệt với quân Trần. Sau vài lần giao chiến, ở đầu cuối quân Nguyên phải rút lui, trước lúc rút đã đốt phá hoàng cung và phố xá.[12]
Địa điểm được giả thuyết là “sông Mang” giữa hai hòn đảo Cái Bàn và Vân Hải nơi xẩy ra cuộc tập kích của quân và dân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trần Khánh Dư và bạn hữu họ Phạm người Quan Lạn vào đoàn thuyền của Trương Văn Hổ.
Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp vốn được giao cầm quân thuỷ mở đường cho đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ, Phí Củng Thìn theo sau. Sau khi đánh lui được quân Trần Gia, Ô Mã Nhi nhận định rằng thế quân Trần yếu không đáng lo, bèn tiến sâu vào trong nước để hội binh với Thoát Hoan và truy đuổi vua Trần.
Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư được giao trấn giữ đường thủy nhưng để quân Nguyên trải qua, bị thượng hoàng Thánh Tông sai sứ hỏi tội. Khánh Dư xin khất vài ngày để chuộc tội.
Đầu năm 1288, đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ kéo đến Vân Đồn, bị quân Trần Khánh Dư tập kích. Không có quân nòng cốt bảo vệ, quân của Trương Văn Hổ mau chóng bị tiêu diệt. Văn Hổ nỗ lực kéo vào đất liền nhưng đến Lục Thuỷ thì thuyền quân Trần đổ ra đánh càng đông. Hổ đại bại, đổ cả thóc xuống biển vì không thích lọt vào tay quân Trần, rồi bỏ chạy về Quỳnh châu.
Thuyền lương của Phí Củng Thìn kéo theo sau, mới đến Huệ châu đã gặp bão, trôi giạt tới Quỳnh châu. Đoàn thuyền lương do Từ Khánh chỉ huy thì đi lạc tới Chiêm Thành rồi quay trở lại Quảng Đông. Như vậy, những thuyền lương của quân Nguyên mất trọn vẹn.
Theo Nguyên sử, quân Nguyên trong trận này chết 220 tên, thuyền mất 11 chiếc, lương mất hơn 14.300 thạch. Con số đó chứng minh và khẳng định là thấp hơn nhiều so với việc thực, vì Trương Văn Hổ chỉ chạy thoát trên một chiếc thuyền. Chiến thắng Vân Đồn có một ý nghĩa rất rộng so với toàn bộ cuộc kháng chiến lần thứ ba của nhà Trần, vì vấn để lương thực đã trở lên vô cùng trở ngại so với quân địch.
Chiến thắng Vân Đồn – Lục Thủy là bước ngoặt quan trọng của trận chiến. Việc Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư phá vỡ được đoàn thuyền lương khiến mọi toan tính kế hoạch của quân Nguyên đã biết thành hòn đảo lộn. Việc thiếu lương thực đã đẩy quân Nguyên vào một trong những thế trận trọn vẹn bị động. Cương mục viết: “Quân Nguyên từ đấy thiếu lương ăn, mỗi ngày một quẫn bách thêm. Quân sĩ ai cũng muốn về, không tồn tại ai có lòng chiến đấu. Cho nên năm bấy giờ quân Nguyên lại kéo sang mà dân ta bị hại không đến nỗi thảm khốc như năm trước đó. Khánh Dư thực đã dự một phần công lao”.
Trong khi Thoát Hoan vây đánh Thăng Long thì những tướng Nguyên ở Vạn Kiếp vẫn tiếp tục củng cố địa thế căn cứ này làm bản doanh; lập hiên chạy thông sang Trung Quốc để phục vụ nhu yếu thông tin về nước, nhưng nhiều đồn trại qua những vùng núi thường bị quân Trần đánh phá và cô lập.[13]
Thoát Hoan vây đánh Thăng Long, chờ mãi không thấy thuyền lương của Trương Văn Hổ tới, bèn sai Ô Mã Nhi đi đón. Ô Mã Nhi khi đi tìm đoàn thuyền lương phải qua đây và đã biết thành tập kích ở cửa Văn Úc (ngày 10 tháng hai năm 1288), và trên biển khơi gần Tháp Sơn, bị thiệt hại nặng mà vẫn không thấy Trương Văn Hổ đâu, đành trở lại Vạn Kiếp. Dọc đường về Vạn Kiếp, Ô Mã Nhi đã cướp được 4 vạn thạch gạo.[14] Các cty chức năng của A Bát Xích đã và đang giao chiến với quân Trần tại Tháp Sơn và cũng cướp được một,3 vạn thạch lương thực. Nhưng ngần đó lương thực cũng không thể đủ nuôi số lượng quân Nguyên quá đông trong thuở nào hạn đủ dài.
Ở Thăng Long mà không tồn tại lương thực, Thoát Hoan lúng túng. Đã vậy, quân Đại Việt đã phản công mạnh mẽ và tự tin và trấn áp vùng Thành Phố Hải Dương và Hải Phòng Đất Cảng đẩy Thoát Hoan vào rủi ro đáng tiếc tiềm ẩn tiềm ẩn bị cắt đường về Vạn Kiếp. Trước tình hình như vậy, Thoát Hoan rút quân khỏi Thăng Long trở lại Vạn Kiếp, sai Abaci đi tiên phong mở đường.[15]
Cho đến thời gian cuối thời điểm tháng 3/1288, tức gần 4 tháng tính từ khi Thoát Hoan dẫn quân đặt chân vào lãnh thổ Đại Việt, thủy bộ quân Nguyên đã dần dần co cụm lại ở Vạn Kiếp và phụ cận, lương thực rất ít, vùng chiếm đóng liên tục bị tập kích, bệnh tật cũng lan tỏa thoáng đãng ra trong quân do thời tiết chuyển từ xuân sang hè. Nguyên sử chép rằng quân Nguyên bi dịch bệnh thật nhiều, không thể tiếp tục tiến binh nên phải lui trở lại.[13]
Để kéo dãn thời hạn cho quân Nguyên thêm xuống sức, vua Trần dùng kế trá hàng. Hưng Ninh vương Trần Tung được phái sang trại quân Nguyên, hẹn ngày “xin hàng”. Thoát Hoan tưởng là thật, bèn án binh bất động, sửa sang thành lũy mà chờ đón vua Trần đến. Đang lúc quân Nguyên mất cảnh giác, quân Đại Việt thình lình tiến công vào đêm hôm, hạ liền mấy trại. Thoát Hoan biết mình mắc mưu, vô cùng tức giận, hạ lệnh cho Vạn hộ Giải Chấn đốt thành lũy, muốn dẫn toàn quân ra tử trận một phen. Các tướng Nguyên dưới quyền phải rất là can ngăn, Thoát Hoan mới bình tâm trở lại mà hủy lệnh.
Tại Vạn Kiếp, quân Nguyên cố thủ trong những thành gỗ nhưng thường xuyên bị quân Đại Việt tập kích vào đêm hôm. Tình hình thiếu lương thực ngày càng trầm trọng. Tướng lĩnh quân Nguyên hoang mang lo lắng, cùng nhau bàn luận kế tiến thủ. Theo Tân Nguyên sử, Thần Nỗ Tổng Quản của quân Nguyên là Giả Nhược Ngu bàn rằng: “Quân trọn vẹn có thể về, không thể giữ”. Các tướng Nguyên khác cùng tiếp lời: “Giao Chỉ chẳng có thành trì nào trọn vẹn có thể giữ được, không tồn tại kho lương tiếp tế lương thực. Vả lại thời tiết đã nóng, sợ rằng hết lương binh mỏi, không thể ở lâu, làm xấu mặt triều đình, nên cho toàn quân trở lại”
Thoát Hoan quyết định hành động rút quân khỏi Đại Việt. Lúc đó là vào lúc thời gian cuối thời điểm tháng 3 năm 1288, tức là chỉ 3 tháng sau khoản thời hạn tiến quân vào Đại Việt. Quân Nguyên chia thành 2 ngả rút về, một ngả của thủy quân do Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Một ngả của cục binh do Thoát Hoan chỉ huy.
Xem rõ ràng: Trận Bạch Đằng 1288
Những cọc nhọn được cho là đã được quân Đại Việt vốn để làm tiêu diệt thủy quân Nguyên. Hiện vật trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.
Để bảo vệ cho thủy quân rút lui, Trình Bằng Phi và Đạt Truật được Thoát Hoan phái đi hộ tống, nhưng bị chặn đánh liên tục phải trở lại Vạn Kiếp đi cùng đại quân bộ.[16] Đoàn thuyền của Ô Mã Nhi không tồn tại bộ binh bảo vệ đã biết thành chặn đánh liên tục, mãi tới ngày 8 tháng bốn năm 1288 mới tiến tới Trúc Động định vào sông Giá. Tuy nhiên, quân Đại Việt đã ngăn được quân Nguyên vào sông Giá, khiến Ô Mã Nhi phải tiến vào sông Bạch Đằng.[17] Tại đây, quân Đại Việt sắp xếp một trận địa cọc ngầm. Một lực lượng lớn bộ binh Đại Việt lại trú tại Tràng Kênh chờ đánh vào sườn phải quân Nguyên khi họ vào sông Bạch Đằng, còn một lực lượng lớn nữa trú tại khu rừng rậm bên tả ngạn sông sẽ đánh vào sườn trái đối phương. Thủy quân Đại Việt thì ẩn náu trên những sông khác thông với sông Bạch Đằng.
Sáng ngày 9 tháng bốn năm 1288, thủy quân Nguyên tiến vào sông Bạch Đằng, thấy thủy quân Việt liền đuổi đánh, tuy nhiên va phải những cọc ngầm và bị chặn lại. Quân Đại Việt từ khắp những hướng đổ ra đánh. Đích thân vua Trần và Trần Hưng Đạo cầm quân tham chiến.
Tướng quân Nguyễn Khoái thống lĩnh quân Thánh Dực dũng nghĩa, đội cấm binh tinh nhuệ nhất của Đại Việt từ hạ lưu đánh thẳng vào chính diện đội hình con thuyền Nguyên Mông. Đội thuyền đang giả thua cũng xoay đầu lại đánh, chắn ngang đường ra biển. Từ những nhánh sông Chanh, sông Kênh, sông Giá, sông Thai, sông Điền Công… thủy quân Trần vốn mai phục sẵn từ trước nhất tề đổ ra đánh. Đồng thời hàng loạt những thuyền bè chở đầy chất cháy được đốt rồi lao thẳng vào thuyền quân Nguyên Mông. Từ hai bờ sông, cung tên, hỏa tiễn bắn ra liên tục.
Các tướng Nguyên là Phàn Tiếp, Lưu Khuê, Hoạch Phong, Ô Mã Nhi, Trương Ngọc, Tích Lệ Cơ cùng chỉ huy quân lính nỗ lực chống trả. Phàn Tiếp cho quân đổ xô lên chiếm lấy núi Tràng Kênh, toan lấy chỗ cao cho quân tựa sống lưng vào này mà dàn trận. Quân của Phàn Tiếp vừa lên bờ đã biết thành phục binh ở núi Tràng Kênh vây đánh, đẩy xuống sông.
Thủy triều rút làm cho số thuyền bị cọc nhọn làm hư hại càng tăng. Cả đoàn thuyền bị ùn tắc, đám thuyền không vướng cọc thì cũng trở nên một đội nhóm thuyền của quân Trần chặn ngang từ phía hạ lưu, không sao thoát ra hướng biển được. Quân Nguyên bị hãm giữa trận, tiến thoái đều không được.
Đến chiều, toàn bộ cánh quân thủy của quân Nguyên bị tiêu diệt. Tướng Nguyên là Trương Ngọc chết trong đám loạn quân. Tướng Trần là Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ. Phàn Tiếp bị thương, nhảy xuống nước, bị quân Trần dùng câu liêm móc lên, bắt sống Siragi và Lý Thiên Hựu. Khoảng 6 vạn quân Nguyên chết hoặc bị tóm gọn (gần như thể không thoát được ai), hàng trăm tàu thuyền bị chìm, hơn 400 con thuyền khác lọt vào tay quân Trần. Gần như toàn bộ thuỷ quân Nguyên bị tiêu diệt.[18]
Ô Mã Nhi bị đem giải đến thuyền ngự của Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng hoàng sai người rót rượu cho Ô Mã Nhi uống.
Một số sách sử chép những người dân bị tóm gọn với Ô Mã Nhi gồm Tích Lệ và Cơ Ngọc. Các sử gia tân tiến đính chính rằng đó không phải là hai người mà chỉ là một người: hoàng thân Tích Lệ Cơ, được phong tước vương nên gọi là Tích Lệ Cơ vương. Do chữ “vương” và chữ “ngọc” tương tự nhau nên sử cũ đã nhầm.Giả thuyết khácSửa đổi
Có ý kiến nhận định rằng, ngay từ khi nhận chức Tiết chế ở Bình Than, Trần Quốc Tuấn đã theo kế của Ngô Quyền, muốn ngăn quân địch tiến vào bằng cọc nhọn ở sông Bạch Đằng. Số cọc nhọn làm năm 1288 chỉ là số bổ trợ update thêm.[19]
Ngay từ thời gian năm 1284, Trần Quốc Tuấn đã giăng bẫy ở đây và muốn dồn địch vào trận địa cọc, nhưng quân Trần yếu thế không tiến hành được ý định. Kết quả quân Nguyên vượt qua bảo vệ an toàn và uy tín.
Năm 1287, khi Ô Mã Nhi tiến vào cũng mang quân đông và mạnh khiến quân Trần không thể dồn quân Nguyên tới bãi cọc vào thời gian triều rút, do đó việc sắp xếp cọc cũng vô hiệu.
Theo ý kiến của Trần Xuân Sinh, những tướng Nguyên không thể không biết về bài học kinh nghiệm tay nghề trận Bạch Đằng, 938 của quân Nam Hán; nhưng do hai lần đã trải qua thuận tiện và đơn thuần và giản dị, quân Nguyên chủ quan không đề phòng cạm bẫy ở sông Bạch Đằng năm 1288. Chính vì vậy khi rút lui đã biết thành sa vào trận địa và bị diệt trọn vẹn.[20]
Ngày 8 tháng bốn năm 1288, quân của Thoát Hoan từ Vạn Kiếp tiến lên Lạng Sơn. Abaci dẫn quân kỵ đi mở đường. Siktur được lệnh dẫn một cánh đi theo phía Tây (qua Chi Lăng), nhưng đến Hãm Nê thì bị quân Đại Việt chặn đánh, đành trở lại nhập vào đoàn quân của Thoát Hoan. Ngày 11 tháng bốn, lực lượng Nguyên tiến tới cửa Nội Bàng (thị xã Chũ và xã Bình Nội của Bắc Giang ngày này) và lọt vào trận địa phục kích của quân Đại Việt. Quân Nguyên cố sức chống cự; Daraci và Lưu Thế Anh phải liều chết mở đường máu cho đại quân thoát khỏi cửa Nội Bàng. Qua được Nội Bàng, Thoát Hoan nhận được tin trinh sát rằng phía trước quân Đại Việt “chia binh hơn 30 vạn, giữ cửa quan Nữ Nhi cùng núi Khâu Cấp, trải dài hơn thế nữa trăm dặm chặn đường về”. Con số 30 vạn có lẽ rằng là vì quân Trần nói phao lên để lừa trinh sát quân Nguyên, vì phần lớn quân nòng cốt Đại Việt đã dồn về ven bờ biển để đánh diệt thủy quân Nguyên, toàn tuyến biên giới trên bộ chỉ có tầm khoảng chừng vài vạn quân Trần hoạt động giải trí và sinh hoạt.
Quân Nguyên đành đổi hướng trải qua Đơn Kỷ[21] về Lộc Châu. Tuy nhiên qua đường này, quân Nguyên vẫn bị quân Đại Việt tập kích.
Nguyên sử chép: “Lúc đó quân ta đã thiếu ăn lại mệt vì chiến đấu, tướng tá nhìn nhau thất sắc” nhưng vẫn phải “cố xông vào mà đánh” và “buộc vết thương lại mà đánh”.[22] A Bát Xích trúng tên độc, đầu cổ đều sưng vù rồi chết trên lối đi. Mãi đến ngày 19 tháng bốn năm 1288, quân Nguyên mới thoát khỏi biên giới về đến Tư Minh.[23] Ái Lỗ đem quân bản bộ về Vân Nam, Áo Lỗ Xích đem tàn binh còn sót lại về bắc. Cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ ba của Nguyên Mông chính thức kết thúc.
Thoát Hoan cùng Trình Bằng Phi chạy thoát về nước. Gần như ngay lúc về nước, Ái Lỗ bị cảm lị qua đời (1288).[24]
Các viên đầu mục người Mông bị tóm gọn được tha về. Những tướng người Hán bỏ hàng ngũ Mông Cổ theo Đại Việt được nhà Trần chấp thuận đồng ý, cấp đất cho sinh sống.[25]
Riêng Ô Mã Nhi, sử cũ của Việt Nam nhận định rằng: vì Ô Mã Nhi khoẻ mạnh, dũng mãnh và tàn ác, giết hại nhiều người Việt và phá lăng vua Trần, Trần Quốc Tuấn đã tiến hành ý định ám sát để ngừa hậu hoạ. Ông cấp thuyền cho Ô Mã Nhi trở về, nhưng lại sai người (có thuyết cho là Yết Kiêu) sung làm phu chèo thuyền và nhân lúc đêm tối dùi thuyền thủng cho đắm. Ô Mã Nhi bị chết đuối. Trần Nhân Tông gửi thư sang nói với Hốt Tất Liệt rằng thuyền bị rỉ nước nên đắm. Nhà Nguyên không thể tra cứu việc đó nên buộc phải lờ đi, không trách cứ.[26] Nguyên sử chép lại bức thư của vua Nhân Tông gửi vua Nguyên về việc này:
“Tham chính Ô Mã Nhi theo kỳ định đã về sau. Chẳng may đêm đến, thuyền rỉ nước, tham chính tầm vóc to lớn lực lưỡng, khó bề cứu vớt, mới nỗi phải chết chìm; người chở thuyền của tiểu quốc vì vớt ông ấy, cũng đều phải chết cả. Thê thiếp và tiểu đồng của Tham chính cũng suýt chết đuối, may vì mình mẩy bé nhẹ nên mới cứu được…”
Có ý kiến nhận định rằng Ô Mã Nhi đã biết thành giết trong trận Bạch Đằng và vụ ám sát do Nguyên sử đưa ra làm cho nhà Trần là hẹp lượng. Một địa thế căn cứ là sau này trong bài Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết:
Sông Bạch Đằng giết toi Ô Mã (Mã Nhi hựu ế ư Bạch Đằng hải).[26]
Vụ giết Ô Mã Nhi bị một số trong những sử gia Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ xem là “thất tín”, còn Trần Trọng Kim đống ý với Tự Đức xem là “bất nhân phi nghĩa”. Các sử gia tân tiến của Việt Nam thì nhận định rằng: tuy không phải đáng khen nhưng không tồn tại gì đáng chê trách, mạt sát cả. Đó là yếu tố trả giá của Ô Mã Nhi với những người Việt.[27] Riêng Lê Văn Siêu phản đối nhận định của Tự Đức nóng bức hơn trong việc này:
“Vua Tự Đức chê (việc này) là bất tín bất nghĩa… Nhưng sao đế vương ngài chẳng đem cái ý niệm đạo đức ấy mà soi vào việc tổ phụ ngài là Nguyễn Ánh đã xử tử tế ra làm thế nào với di hài của Quang Trung? Còn đấy là tướng giặc, đã từng giết thác (chết) bao nhiêu người, từng đuổi ngặt vua và thượng hoàng, lại từng phá lăng miếu tổ tiên người ta…”[28]
Phàn Tiếp lo buồn thành bệnh qua đời ở Đại Việt, Trần Nhân Tông sai hoả táng và cấp người ngựa cho vợ con mang xác về nước. Có ý kiến nhận định rằng Phàn Tiếp cũng trở nên giết lén cùng Ô Mã Nhi.[29]
Hoàng thân Tích Lệ Cơ cùng những tướng người Mông khác được trở về nước tháng hai năm 1289.
Kế hoạch xâm lược Đại Việt của nhà Nguyên một lần nữa thất bại. Một số tướng lĩnh xuất sắc của nhà Nguyên đã chết, như A Bát Xích, Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp. Phần lớn con thuyền của quân Nguyên bị tiêu diệt hoặc bắt giữ. Số lượng binh sĩ tử trận là không nhỏ, nhất là lực lượng thủy quân bị tiêu diệt gần như thể toàn bộ.
Riêng cánh quân Vân Nam của Ái Lỗ, sử cũ không ghi rõ kết cục. Trần Xuân Sinh phỏng đoán rằng đạo quân này theo ngược sông Hồng trở về Vân Nam, sau khoản thời hạn Thoát Hoan rời Vạn Kiếp. Nguyên sử chỉ ghi ngắn gọn: “Thoát Hoan lệnh cho Ái Lỗ rút về Vân Nam”.[24]
Tin bại trận về đến nơi, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt lồng lộn nổi giận, đã lệnh cho Thoát Hoan ra ở đất Dương Châu, suốt đời không cho về kinh nhìn mặt.
Về phía Đại Việt, tuy đã làm phá sản kế hoạch xâm lược của quân Nguyên, nhưng nhiều tướng sỹ đã tử trận. Triều đình Đại Việt mong ước hai nước hòa hảo, dập tắt lửa cuộc chiến tranh. Vì thế, chỉ ở tại mức một tháng sau thì sứ giả Đại Việt đã sang nước Nguyên để mong nối lại bang giao. Tháng 5/1288, sứ bộ nhà Trần gồm Nguyễn Đức Vinh, Đoàn Khải Khung sang tặng cống phẩm, đưa biểu “tạ tội”. Sứ bộ Nguyễn Đức Vinh sang Nguyên đúng vào lúc Hốt Tất Liệt hậm hực nên đã biết thành giam lỏng, không cho về nước. Mùa đông năm 1288, sứ bộ thứ hai của Đại Việt do Đỗ Thiên Hư lại sang Nguyên, đem theo một số trong những tù binh trao trả lại cho nước Nguyên. Trong số tù binh có quý tộc Mông Cổ là Tích Lệ Cơ Ngọc cũng rất được trao trả trong lần này.
Ngày 21/03/1288, sứ bộ nước Nguyên do Lưu Đình Trực, Lý Tư Diễn sang đến kinh đô Đại Việt. Triều đình nhà Trần ân cần đón tiếp. Lưu Đình Trực cưỡi ngựa đến tận hoàng cung, đích thân Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn phải ra đón sứ, mời vào điện Tập Hiển tiếp đãi. Chiếu thư của vua Nguyên yêu cầu vua Trần phải sang chầu, và phải thả hết những tướng Nguyên còn hiện giờ đang bị tóm gọn làm tù binh.
Vua Trần khước từ sang chầu vua Nguyên, lấy cớ rằng “tuổi già không ra đi được”. Còn về tướng tù binh thì tuân theo kế mà Hưng Đạo vương hiến: Một mặt triều đình minh bạch lệnh cho Nội tư gia Hoàng Tá Thốn đưa Ô Mã Nhi về nước theo đường thủy. Mặt khác ngầm sai người bơi lặn giỏi làm phu chèo thuyền, khi ra chỗ nước sâu, phu thuyền nhân lúc đêm đến lặn xuống nước đục thuyền cho chìm khiến Ô Mã Nhi bị chết đuối, ngụy trang đó là một vụ tai nạn đáng tiếc. Vua Trần lại sai đại phu Đàm Minh cùng Chu Anh Chủng theo sứ đoàn nước Nguyên sang gặp Hốt Tất Liệt, gửi biểu biện bạch của vua Trần. Hốt Tất Liệt và quan lại Nguyên khi nghe đến lời biện bạch của sứ giả Đại Việt, đọc qua biểu trần tình của vua Trần ai nấy cũng nghi ngờ không phải thực sự, nhưng không tồn tại lý lẽ gì để bắt bẻ.
Sau những thất bại, vua tôi nước Nguyên rút kinh nghiệm tay nghề, bàn nhau mở một hướng tiến công trọng tâm khác vào Đại Việt.
Ngày 10/3/1289, Quản quân vạn hộ Thủ Đô là Lưu Đức Lộc tâu xin đem 5.000 quân đi chiêu dụ những bộ lạc vùng tây-nam nước Nguyên để từ đó tiến đánh Đại Việt. Hốt Tất Liệt chấp thuận đồng ý, còn cho xây dựng Soái phủ, phong Lưu Đức Lộc làm Đô nguyên soái, cấp cho một vạn quân Tứ Xuyên. Nguyên triều toan tính rằng sẽ sẵn sàng mở một cuộc xâm lược với hướng tiến công chính đánh vào vùng tây-bắc nước Đại Việt, kỳ vọng rằng tiến công từ phía này sẽ phát huy hết thế mạnh về kỵ bộ, tránh khỏi ưu thế thủy quân Đại Việt.
Tuy nhiên, kế hoạch mới chỉ trong quá trình phôi thai và sớm gặp trở ngại. Trong trong năm từ 1288, tình hình nội bộ nước Nguyên không ổn định. Nhà Nguyên kêu gọi binh lính chinh phạt liên tục, thường xuyên áp bức, bóc lột nhân dân. Nhất là những vùng phía nam, Nguyên Mông đã kêu gọi thật nhiều sức người sức của đổ vào cuộc chiến tranh với Đại Việt, Chiêm Thành, Java… Dân chúng quá khổ sở, nổi dậy chống lại ở nhiều nơi. Phúc Kiến có quân Hoàng Hoa; Quảng Đông có quân của Đổng Hiền Cử; Chiết Giang có Dương Trấn Đông, Liễu Thế Anh; Tuần Châu có Chung Minh Lượng có đến hàng vạn quân nổi dậy. Cả vùng phía nam nước Nguyên loạn lạc.
Án sát sứ Phúc Kiến là Vương Tồn tâu lên với Hốt Tất Liệt: “Phúc Kiến quận huyện hơn 50 chỗ, liền núi tiếp biển, thực là khu trọng yếu ở biên cương. Từ khi bình Tống đến nay, quan lại tàn bạo, cho nên vì thế dân ngu thường tụ nhau nổi dậy, triều đình đem quân đi đánh lại giày xéo tan nát… Huống dân quy phụ ở Phúc Kiến đến mấy trăm vạn hộ, trong vụ biến Hoàng Hoa đi theo đến 4-5 phần mười, nay thanh thế của Minh Lượng lại rầm rộ hơn Hoa, sao trọn vẹn có thể xem là bọn giặc cỏ tầm thường. Nên tuyển tinh binh, nghiêm tín hiệu lệnh, dùng kế mà đánh, nếu không thì không dứt được mối hoạ”. Ngự sử đại phu nước Nguyên là Oa Lúc lên Hốt Tất Liệt: “Giặc cướp nổi lên ở Giang Nam hơn 400 chỗ, nên lựa chọn tướng để đi đánh” Thế là kế hoạch đánh Đại Việt phải ngừng lại để lo dẹp nội loạn.
Ở phía Bắc, đế chế Mông Cổ cũng khởi đầu tan vỡ. Các vương tôn Mông Cổ ở phía bắc link nhau chống lại Hốt Tất Liệt. Năm 1287, vương tôn Nãi Nhan cất quân chống lại Nguyên triều. Hốt Tất Liệt đã phải thân chinh đi đánh, bắt được Nãi Nhan. Hãn quốc Sát Hợp Đài và nhà Nguyên cũng thường xuyên xẩy ra xung đột. Hải Đô, cháu nội Oa Khoát Đài liên minh với Đô Oa (Duwa) đem quân từ Hãn quốc Sát Hợp Đài tiến công vào miền bắc nước ta nước Nguyên của Hốt Tất Liệt. Đến năm 1289, đích thân Hốt Tất Liệt lại phải cầm quân lên phía bắc chống lại, Hải Đô phải lui binh nhưng chiến sự giữa nhà Nguyên và Hãn quốc Sát Hợp Đài vẫn trình làng dai dẳng nhiều năm tiếp theo nữa. Cuộc chiến này đã làm suy yếu cả hai đế chế của người Mông Cổ.
Ngày 2/7/1290, Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời. Nguyên chủ muốn nhân lúc Đại Việt có tang mà gây sự. Thừa tướng Hoàn Trạch và viên Bình chương Bất Hốt Mộc can ngăn, vì tình hình nước Nguyên cũng không khả quan để trọn vẹn có thể nam chinh. Hốt Tất Liệt sau khoản thời hạn Để ý đến đành phải nghe theo.
Năm 1293, Hốt Tất Liệt lại nung nấu ý muốn thôn tính Đại Việt, triệu Lưu Quốc Kiệt Bạt Đô (Bạt Đô tức là dũng sĩ) vào triều để giao việc. Hốt Tất Liệt lệnh xây dựng Hồ Quảng An Nam hành tỉnh, giao cho Lưu Quốc Kiệt làm tướng soái, cùng thân vương Diệp Cát Lý Đải (Ikiradai) với những tướng Trần Nham, Triệu Tu Kỷ, Vân Tòng Long, Trương Văn Hổ, Sầm Hùng… sẵn sàng nam chinh. Lưu Quốc Kiệt được lệnh đến Ngạc Châu bàn luận với Trần Ích Tắc kế hoạch. Ban đầu, Nguyên triều điều động 1.000 chiếc thuyền, mỗi chiếc chứa được 100 hộc, 56.570 quân, 35 vạn thạch lương thực, hai vạn thạch thức ăn cho ngựa, 21 vạn cân muối, 70 vạn khí giới triệu tập ở Tĩnh Giang (thuộc Quảng Tây), lấy cớ là dẹp giặc ngoài biên giới để Đại Việt không đề phòng. Bấy giờ có tù trưởng tên Hoàng Thánh Hứa, vốn là tri châu Thượng Tư (thuộc Thượng Lang, Cao Bằng ngày này) đã nổi dậy, đem hàng vạn quân đánh phá Ung Châu. Nguyên triều muốn lấy việc đánh dẹp Hoàng Thánh Hứa làm bình phong cho việc triệu tập quân tiến công Đại Việt. Từ năm 1293 đến 1294 triệu tập lực lượng, của cải, mộ quân. Quảng Đông được lệnh đóng thêm 500 con thuyền, dân vùng Quảng Tây được lệnh làm đồn điền để chu cấp cho quân nam chinh. Việc sẵn sàng đang quay quồng sẵn sàng thì đến ngày 18/2/1294, Nguyên chủ Hốt Tất Liệt ốm chết. Thái tử Thiết Mộc Nhĩ lên kế vị, là Nguyên Thành Tông. Vua mới không tồn tại lòng hận Đại Việt, nhân cớ trong nước có tang mà xuống lệnh bãi binh.
Tháng 4 âm lịch năm 1289, Trần Nhân Tông xét công lao những tướng sĩ trong trận thắng quân Nguyên. Các tướng Trần Quốc Tuấn được phong tước “đại vương”, Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn phong Khai quốc công, Hưng Nhượng vương Trần Quốc Tảng phong Tiết độ sứ; Đỗ Khắc Chung được ban họ Trần của vua; Nguyễn Khoái được phong Liệt hầu và 1 hương (xã) làm thái ấp (sau được mang tên ông, gọi là Khoái Lộ);[30] Phạm Ngũ Lão được phong Dực Thánh quân. Tù trưởng Lạng Giang Lương Uất có quân công nên được phong làm Trại chủ Quy Hóa. Tù trưởng Hà Tất Năng có công chỉ huy người thiểu số đánh giặc, được phong tước Quan phục hầu. Các tù trưởng người Mường, Tày, Thái, Dao đều được phong chức phục hầu.
Hưng Trí vương Trần Quốc Hiện cũng luôn có thể có công lao rất rộng, nhưng vì cãi lệnh vua đem quân đánh bọn Thoát Hoan trong lúc vua đã hạ lệnh thả cho chúng một con phố sống nên ông không được phong thưởng. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, là lập được đại công nhưng vì không dâng lên vua và lại dâng lên Thượng hoàng nên bị tóm gọn tội bất kính, chỉ được phong tước Quan nội hầu.
Ngoài ra, Trần Nhân Tông còn phong cho tông thất có công, như con cháu Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trấn thủ những vùng thượng du. Triều đình lại cho vẽ chân dung, ghi công trạng những người dân có chiến công đặc biệt quan trọng trong hai trận chiến (kháng chiến chống Nguyên lần 2, lần 3) vào sách Trùng Hưng Thực Lục.
Bấy giờ người trong nước lập được quân công thật nhiều mà chức tước, bổng lộc của triều đình thì có số lượng giới hạn. Việc thưởng công xong rồi, nhiều người vẫn cho là sơ sài. Thượng hoàng Trần Thánh Tông bèn dụ rằng:
Nếu những khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói rõ cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và những khanh lại lập công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ
Xét tới những người dân từng theo hàng quân Nguyên khi quân Nguyên đang mạnh, quan viên phạm tội thì xử tử hoặc bắt đi đày, còn quân dân thì đều miễn tội nhưng bị tóm gọn phải chịu phu dịch, chuyên chở gỗ đá để xây dựng hoàng cung. Cận thần rất được tin dùng của vua Trần Nhân Tông là Đặng Long trước đó vua đã định phong làm Hàn Lâm học sĩ nhưng Thượng hoàng ngăn cản, Đặng Long bất mãn nên hàng giặc. Khi Long bị tóm gọn, vua sai đem chém đầu làm răn. Trần Ích Tắc theo nhà Nguyên, bị đổi gọi là Ả Trần (ý nói “nhát như phụ nữ”). Trần Kiện và Trần Văn Lộng tuy đã chết nhưng vào năm 1289, vua Trần ra sắc lệnh bắt con cháu hai người cũng trở nên tịch thu gia tài và đổi sang họ Mai (枚).
Những hương sớm hàng giặc là Bàng Hà, Ba Điểm thì bắt dân ở đó đời đời chỉ được làm lính, làm nô, không được đi thi hay tiến cử làm quan, làm tướng.
Khi quân Nguyên thua chạy, bỏ lại một tráp công văn. Quân Trần bắt được, có nhiều sách vở của những quan lại tư thông với quân Nguyên. Đình thần muốn mang so sánh để trị tội, nhưng thượng hoàng Trần Thánh Tông tuân theo gương Hán Quang Vũ Đế, nhận định rằng trị tội kẻ tiểu nhân cũng vô ích, rồi sai đốt hết đi.[31]
Trong trận chiến lần thứ ba, giữa quân Trần và quân Nguyên đã đụng độ giàn trải trên nhiều địa phận ở hầu hết miền bắc nước ta Đại Việt. Quân Trần đã dữ thế chủ động nhằm mục tiêu vào những khuyết điểm kém của quân Nguyên để đánh tiêu tốn lực lượng địch.
Khi quân Nguyên tiến vào, quân Trần không rút lui co cụm trọn vẹn về phía sau mà vẫn dữ thế chủ động sắp xếp lực lượng chặn đánh địch trên nhiều tuyến. Ngoài mặt trận chính ở Lạng Sơn, Vạn Kiếp và Thăng Long mà quân Nguyên chiếm ưu thế, quân Trần vẫn đã có được hai trận thắng ở phía sau sống lưng quân nòng cốt Thoát Hoan: trận Cao Lạng đánh tan hậu đội của Lê Tắc và nhất là trận Vân Đồn cắt đứt trọn vẹn lương thực của quân Nguyên khiến Thoát Hoan buộc phải điều quân tản rộng ra để cướp của người Việt. Chiến thắng Vân Đồn được những sử gia định hình và nhận định có vai trò rất rộng, quyết định hành động bước ngoặt mặt trận, vì đạo quân phần đông của Thoát Hoan không tồn tại lương thực sẽ rất nhanh rơi vào tình trạng nguy khốn. Nếu số lương của Trương Văn Hổ tới được tay Thoát Hoan thì đã trọn vẹn có thể hỗ trợ cho quân Nguyên kéo dãn chiến sự và gây thêm nhiều trở ngại cho Đại Việt.[32]
Nhà Trần một lần nữa lại lập võ thuật đẩy lui được một cuộc xâm lược quy mô của nhà Nguyên, giữ vững được bờ cõi. Trận Bạch Đằng, 1288 cũng rất được ghi nhận là một trong những trận đánh nổi tiếng nhất trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam. Tuy nhiên, thắng lợi lần thứ ba chưa thực sự chấm hết được cuộc chiến tranh. Sau trận chiến, nhà Trần đã dữ thế chủ động dùng giải pháp ngoại giao để lập lại hoà bình; Hốt Tất Liệt vẫn muốn tiếp tục động binh trong trong năm tiếp theo nhưng chưa tồn tại thời cơ thuận tiện. Năm 1294, Hốt Tất Liệt qua đời, Thiết Mộc Nhĩ lên ngôi ngừng việc phát động cuộc chiến tranh với Đại Việt. Khi đó cuộc chiến tranh mới thực sự chấm hết.
Thất bại của Mông Cổ trong trận chiến này mang sự tự tin cho những vương quốc châu Á nhỏ xung quanh về những trận chiến của mình chống lại quân Mông Cổ sau này, đồng thời cũng tiêu diệt tham vọng chinh phục toàn bộ Khu vực Đông Nam Á của nhà Nguyên.
Reply
7
0
Chia sẻ
– Một số Keywords tìm kiếm nhiều : ” Review Đường lối đúng đắn của nhà Trần khi tổ chức triển khai chiến đấu chống quân Mông – Nguyên tiên tiến và phát triển nhất , Share Link Cập nhật Đường lối đúng đắn của nhà Trần khi tổ chức triển khai chiến đấu chống quân Mông – Nguyên “.
Bạn trọn vẹn có thể để lại phản hồi nếu gặp yếu tố chưa hiểu nghen.
#Đường #lối #đúng #đắn #của #nhà #Trần #khi #tổ #chức #chiến #đấu #chống #quân #Mông #Nguyên Đường lối đúng đắn của nhà Trần khi tổ chức triển khai chiến đấu chống quân Mông – Nguyên