Categories: Thủ Thuật Mới

Video Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 Mới nhất

Mục lục bài viết

Kinh Nghiệm Hướng dẫn Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 Mới Nhất

Update: 2022-03-27 20:09:10,You Cần biết về Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2. Quý khách trọn vẹn có thể lại Báo lỗi ở cuối bài để Admin được tương hỗ.


Tóm lược đại ý quan trọng trong bài

  • Mục lục
  • Hoàn cảnh lịch sửSửa đổi
  • Biên giới Tống-Việt trước cuộc chiếnSửa đổi
  • Chủ trương đánh Đại Việt của TốngSửa đổi
  • Đại Việt đánh đòn phủ đầuSửa đổi

  • Trận châu Khâm-châu LiêmSửa đổi
  • Trận thành Ung ChâuSửa đổi
  • Đại Việt rút quânSửa đổi
  • Quân Tống sang đánh Đại ViệtSửa đổi
  • Lực lượng của TốngSửa đổi
  • Lực lượng của Đại ViệtSửa đổi
  • Các trận đánh thứ nhất của nhà TốngSửa đổi
  • Trận thủy chiến Đông KênhSửa đổi
  • Trận sông Như NguyệtSửa đổi
  • Giảng hòaSửa đổi
  • Xem thêmSửa đổi
  • Tham khảoSửa đổi
  • Chú thíchSửa đổi

Hay nhất

NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI:

-Là trận cuộc chiến tranh chính nghĩa, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, độc lập độc lập của dân tộc bản địa, môi trường sống đời thường yên lành của nhân dân.

– Truyền thống đấu tranh kiên cường, quật cường, sức mạnh đoàn kết, quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do của toàn dân.

-Nghệ thuật tiến hành kháng chiến do tài năng lỗi lạc của những người dân lãnh đạo.

Ý NGHĨA LỊCH SỬ:

– Đánh bại ý chí xâm lược của quân địch hung bạo, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc.

– Làm suy yếu thế lực của đế quốc Mông – Nguyên, phá vỡ kế hoạch bành trướng xuống phương Nam của chúng

Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai trình làng từ thời gian năm 1075 đến năm 1077 là trận cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc vào thời gian cuối thế kỷ 11. Giai đoạn đầu, tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt đã dữ thế chủ động đánh sang đất Tống trong chiến dịch 1075-1076, phá thành Ung Châu. Giai đoạn sau, quân Lý rút về phòng thủ chống lại cuộc nam tiến của đại quân Tống trong năm 1076-1077 và ở đầu cuối đẩy lui được quân Tống thoát khỏi lãnh thổ Đại Việt. Đây là trận cuộc chiến tranh quy mô lớn số 1 và quyết liệt nhất vùng Đông Á – Khu vực Đông Nam Á trong thế kỷ thứ 11.[cần dẫn nguồn]

Chiến tranh Tống-Việt lần 2Tập tin:Chien tranh viet trung 1076 vi.jpg
Bản đồ hai nước, nhà Tống màu cam, Đại Việt màu tím phía dưới.Thời gian1075–1077Địa điểm

Đại Tống và Đại Việt

Kết quả

Đại Việt thắng lợi, hòa ước giữa 2 nước

  • Quân Tống rút thoát khỏi Đại Việt
  • Đại Việt đồng ý thần phục và triều cống
  • Thỏa thuận trao trả tù binh

Tham chiến
Đại Tống
Đại Việt dưới nhà LýChỉ huy và lãnh đạo
Quách Quỳ
Triệu Tiết
Trương Thủ Tiết (張守節)
Tô Giám
Lý Thường Kiệt
Nùng Tôn Đản
Thân Cảnh Phúc
Lưu Ưng Ký Lực lượng

Chiến trường Đại Tống: 30.000 quân

Chiến trường Đại Việt: 100.000 quân
200.000 dân phu

Chiến trường Đại Tống: 80.000-100.000 quân

Chiến trường Đại Việt: 80.000 quânThương vong và tổn thất

Chiến trường Đại Tống: 80.000-100.000 quân và dân bị giết

Chiến trường Đại Việt: 176.600 lính và dân phu chết

Chiến trường đất Tống: 20.000 quân tử trận

Chiến trường Đại Việt: không rõ

Mục lục

  • 1 Hoàn cảnh lịch sử dân tộc bản địa
  • 2 Biên giới Tống-Việt trước trận chiến
  • 3 Chủ trương đánh Đại Việt của Tống
  • 4 Đại Việt đánh đòn phủ đầu
    • 4.1 Trận châu Khâm-châu Liêm
    • 4.2 Trận thành Ung Châu
    • 4.3 Đại Việt rút quân
  • 5 Quân Tống sang đánh Đại Việt
    • 5.1 Lực lượng của Tống
    • 5.2 Lực lượng của Đại Việt
    • 5.3 Các trận đánh thứ nhất của nhà Tống
    • 5.4 Trận thủy chiến Đông Kênh
    • 5.5 Trận sông Như Nguyệt
  • 6 Giảng hòa
  • 7 Xem thêm
    • 7.1 Nhà Lý
  • 8 Tham khảo
  • 9 Chú thích

Hoàn cảnh lịch sửSửa đổi

Năm 1009, Lý Công Uẩn lập ra nhà Lý. Năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La và thay tên thành Đại La là Thăng Long. Để củng cố khu vực biên giới phía bắc, nhà Lý dùng quyết sách gả công chúa cho những thủ lĩnh dân tộc bản địa ít người (đa phần là người dân tộc bản địa Tày) ở miền núi để xây dựng và gắn chặt quan hệ với họ. Trải qua 4 triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông, nước Đại Việt tăng trưởng ổn định và vững mạnh.

Ở phương bắc, nhà Tống từ khi xây dựng (960) đã phải khắc phục những hậu quả do thời chia cắt Ngũ đại Thập quốc để lại. Ngoài việc đánh dẹp những nước cát cứ, nhà Tống phải đối phó với nước Liêu vững mạnh ở phương bắc – vương quốc của người Khiết Đan được vua nhà Hậu Tấn cắt cho 16 châu Yên Vân ở phía bắc từ thời gian năm 936 nên lãnh thổ bành trướng nhiều về phía Trung Quốc và thường nhân đó can thiệp vào trung nguyên. Đến thời Tống Thái Tông, dù dẹp hết những nước trong Thập quốc nhưng rủi ro đáng tiếc tiềm ẩn tiềm ẩn uy hiếp từ phía nhà Liêu vẫn luôn tiềm ẩn với nhà Tống.

Sang thời Tống Nhân Tông, nhà Tống lại bị thêm sự uy hiếp của nước Tây Hạ của người Đảng Hạng phía tây-bắc mới nổi. Nhà Tống phải cống nộp nhiều của cải và bị mất nhiều phần lãnh thổ cho Liêu và Tây Hạ. Trong nước, triều Tống bị rối loạn bởi những cải cách của Vương An Thạch.

Chủ trương tiến đánh những nước phía nam Trung Quốc (như Đại Việt) để giải tỏa những căng thẳng mệt mỏi trở thành một kế hoạch của nhà Tống.

Biên giới Tống-Việt trước cuộc chiếnSửa đổi

Xem thêm: Nùng Trí Cao

Từ thời Lý Thái Tông, nhà Lý đã nhân cuộc đánh phá biên giới nhà Tống của thủ lĩnh người Tày là Nùng Trí Cao mà bành trướng ngầm lãnh thổ của tớ bằng phương pháp xúi người dân tộc bản địa Tày ở biên giới lấn đất và sinh sự trong thuở nào hạn khá dài[1].

Tri châu Tiêu Chú ở Ung Châu đã từng dâng sớ về triều xin đánh Đại Việt kẻo sau có đại họa. Nhưng Tiêu Chú bị bãi chức. Khi Vương An Thạch lên cầm quyền, Tiêu Chú được phục chức vì ông là người am hiểu mọi yếu tố Đại Việt đang nằm trong kế hoạch mở rộng xuống phương nam của Vương An Thạch. Đánh Đại Việt không riêng gì có để khuếch trương về phương nam mà còn lấy khí thế để mở rộng cương vực cho Trung Nguyên về phương bắc (đánh Liêu và Hạ).

Năm 1060, quan Lạng châu mục là Thân Thiệu Thái (ông này là bố đẻ của Thân Cảnh Phúc) đem binh vào huyện Nhử Ngao ở châu Tây Bình thuộc địa giới nhà Tống để bắt người bỏ trốn. Ông Thái bắt sống được toàn bộ nhóm ấy nhưng có lẫn cả Dương Lữ Tài (là một viên quan nhà Tống) và nhiều trâu, ngựa. Nhà Tống sai quan Lại bộ thị lang là Dư Tĩnh đến Ung Châu thảo luận về việc ấy. Lý Thánh Tông lại sai Bùi Gia Hựu tới Ung Châu bàn nghị. Dư Tĩnh đem nhiều của đút lót Bùi Gia Hựu và gửi thư cho Hựu mang về, xin vua Lý trả lại Dương Lữ Tài nhưng không được[2].

Vua Tống nén giận, giữ tình hòa hảo nhưng vẫn đợi dịp thuận tiện để xâm lăng Đại Việt mà từ lâu Tống coi như quân địch trong suốt mười năm. Tiêu Chú sau khoản thời hạn được phục hồi liền tới Quế Châu thanh toán thanh toán với những tù trưởng từ đạo Đặc Ma đến châu Điền Đống, được biết thời gian lúc bấy giờ triều Lý thắng Chiêm Thành (Cham-pa), thu phục thêm được 3 châu của người Chiêm, dân số quốc kế rất thịnh đạt.

Chủ trương đánh Đại Việt của TốngSửa đổi

Từ năm 1070, Vương An Thạch để ý đến phương nam và muốn lập công ở ngoài biên, tâu lên vua Tống rằng:

“Giao Chỉ vừa đánh Chiêm Thành bị thất bại, quân không hề nổi một vạn, trọn vẹn có thể lấy quân Ung Châu sang chiếm Giao Chỉ.”[3].

Vua Tống hỏi ý Tiêu Chú nhưng Tiêu Chú không tán thành cuộc nam chinh. Trái lại, Binh bộ thị lang Thẩm Khởi lại rất đống ý đánh Đại Việt. Vua Tống liền phái Thẩm Khởi thay Tiêu Chú làm Quảng Tây kinh lược sứ năm 1073 lo việc xuất quân.

Việc thứ nhất của Thẩm Khởi là đặt những doanh trại, sửa đường tiếp tế. Việc thứ hai là phủ dụ 52 động thuộc Ung Châu sung công những thuyền chở muối để tập thủy chiến. Sợ Đại Việt biết, ông cấm hẳn mọi việc marketing, thanh toán thanh toán giữa những biên dân Việt-Trung.

Các tù trưởng nằm trong kế hoạch phủ dụ của Thẩm Khởi là Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên, Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Kạn, giáp Thất Khê hưởng ứng. Theo Nguyễn Văn Tố, họ Thẩm chứa chấp Nùng Thiện Mỹ và việc này đã đi đến tai người Việt[4]. Công việc đang tiến triển thì tháng 3 năm 1074, Chuyển vận sứ Quảng Tây tỏ ý phản đối Thẩm Khởi về những hoạt động giải trí và sinh hoạt kể trên. Thêm nữa, Thẩm Khởi đã sai lầm đáng tiếc trong nhiều việc nên bị đổi đi Đàm Châu và chính Vương An Thạch cũng không tin rằng Thẩm xử lý và xử lý nổi yếu tố Đại Việt. Bấy giờ vua Tống trách Thẩm Khởi vì tội tự tiện nhận bọn Nùng Thiện Mỹ mà không hỏi, cũng khước từ cho Lưu Kỷ nhập Tống vì sợ nhà Lý giành lại.

Lưu Di thay Thẩm Khởi, được lệnh tăng cường binh sĩ, tiếp tục điểm dân, tích lương, đóng con thuyền, rèn luyện thủy binh. Cũng như Thẩm Khởi, Lưu Di còn cấm người Đại Việt sang đất Tống marketing vì sợ bị thám thính.

Đặc biệt, nhà Tống đã biến Ung Châu thành một địa thế căn cứ xuất phát để đánh Đại Việt và giao cho Tô Giám, một viên tướng dày dặn kinh nghiệm tay nghề trong trận chiến chống Nùng Trí Cao trước đó chỉ huy địa thế căn cứ này.

Mọi sự sẵn sàng để chinh phạt của nhà Tống đều được nỗ lực giữ bí mật. Hoàng đế Tống nhắc nhở: “Nghe Giao Chỉ sai nhiều kẻ tà đạo tới thám Lưỡng Quảng. Vậy những chỉ huy, những tướng phải coi chừng. Đừng để nó dò được phép công, thủ, tiến thoái của ta.”[5]

Đại Việt đánh đòn phủ đầuSửa đổi

Năm 1072, vua Lý Thánh Tông qua đời, thái tử Càn Đức mới 7 tuổi lên thay, tức là vua Lý Nhân Tông. Thái phi Ỷ Lan làm nhiếp chính, được sự phò tá của những đại thần Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành nên tình hình vương quốc vẫn khá ổn định.

Tuy Tống nỗ lực giữ bí mật, nhưng Đại Việt đã “bắt bài” được ý đồ của quân Tống. Đặc biệt, năm 1073, một tiến sỹ nhà Tống là Từ Bá Tường (ông này tuy học giỏi, đỗ đạt nhưng do không tồn tại tiền đút lót nên không được trọng dụng đã phát sinh tâm lí bất mãn) đã thông tin với nhà Lý[6]:

Hiện nay Trung Quốc muốn cử binh diệt Giao Chỉ. Theo binh pháp dạy: “Trước khi người dân có bụng cướp mình thì chi bằng mình đánh trước” Lúc nào quân Đại vương vào đánh, Bá Tường xin làm nội ứng.

Thái úy Đại Việt là Lý Thường Kiệt chủ trương tiến hành một kế hoạch đánh đòn phủ đầu[5] nên quyết định hành động triệu tập quân bắc tiến. Thời nhà Lý, giúp vua trị nước là 2 ban: ban Văn và ban Võ. Ban Văn phụ trách những mảng: giáo dục, thi tuyển, văn hóa truyền thống, kinh tế tài chính, chính trị. Còn ban Võ thì phụ trách về mảng quốc phòng và bảo mật thông tin an ninh. Người đứng đầu ban Võ là Thái úy, tương tự với chức Bộ trưởng Bộ quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Công an ngày này

Năm 1073, Lý Thường Kiệt đã triệu tập nhiều quân lính và vũ khí, lương thực, xe cộ ở biên giới.

Năm 1074, Vua Tống được tin nhà Lý tụ binh, báo gấp cho Tô Giám, dặn rằng nếu Đại Việt tiến công Ung Châu thì phải kiểm quân cố thủ, không được khinh địch. Đại Việt tính rằng quân Tống có vào Đại Việt tất phải qua Ung Châu theo lối đi bộ và qua những cửa biển Khâm Châu và Liêm Châu theo đường thủy nên họ quyết tâm phá trước những cứ điểm này của người Tống.

Đại Việt đã kêu gọi hơn 10 vạn quân sang đánh phá địa thế căn cứ Ung Châu của Tống, gồm có cả lực lượng chính quy của triều đình lẫn dân quân địa phương của những thủ lĩnh dân tộc bản địa thiểu số miền núi phía Bắc. Đạo quân của triều đình ở phía Đông do đích thân Thái úy Lý Thường Kiệt chỉ huy, gồm cả thủy quân xuất phát từ Móng Cái bằng thuyền độc mộc tiến vào đất Tống trong đêm tối nhằm mục tiêu tới châu Khâm. Còn đạo quân của những thủ lĩnh dân tộc bản địa thiểu số ở phía Tây đặt dưới sự chỉ huy của Tôn Đản chia thành 4 mũi tiến vào đất Tống: Lưu Kỷ từ Quảng Nguyên (Cao Bằng), Hoàng Kim Mãn từ Môn Châu (Đông Khê – Cao Bằng), Thân Cảnh Phúc từ Quang Lang (Lạng Sơn) và Vi Thủ An từ Tô Mậu (Quảng Ninh) nhắm tới châu Ung.[5] Đạo quân phía Tây sẽ “dương Tây” để đạo quân phía Đông bất thần “kích Đông”.

Trận châu Khâm-châu LiêmSửa đổi

Ngày 27 tháng 10 năm 1075, Vi Thủ An dẫn 700 quân từ Tô Mậu vào đánh Cổ Vạn, chiếm hữu được trại Cổ Vạn. Tin tức đến tận ngày 21 tháng 12 mới tới được triều đình nhà Tống. Tiếp theo, những mũi quân phía Tây lần lượt lấn chiếm trại Vĩnh Bình, Thái Bình, những châu Tây Bình, châu Lộc, trại Hoành Sơn.[5]

Quân Tống bị thu hút vào phía Tây, nên lơ là phía Đông. Khi đạo quân phía Đông của Đại Việt tập kích, quân Tống đang không chống đỡ nổi. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, châu Khâm bị chiếm. Ngày 2 tháng một năm 1076, châu Liêm thất thủ.[5] Sau đó, Lý Thường Kiệt dẫn quân đến châu Ung cùng đạo quân phía Tây quyết tâm hạ thành châu Ung.

Trận thành Ung ChâuSửa đổi

Từ ngày 10 tháng 12 năm 1075, cánh quân thứ nhất do Tông Đản chỉ huy đã nâng đến Ung Châu. Cánh quân chiếm hữu được Khâm Châu tiến lên Ung Châu. Cánh chiếm hữu được Liêm Châu tiến sang miền Đông Bắc chiếm châu Bạch[7]. Ngày 18 tháng một năm 1076, đạo quân của Lý Thường Kiệt cũng tới thành Ung châu.

Tướng giữ thành là Tô Giám chỉ có 2.800 quân, thấy thế quân Đại Việt mạnh nên đã vận dụng triệt để quyết sách cố thủ để chờ viện quân.

Một lực lượng cứu viện của Tống do Trương Thủ Tiết chỉ huy đã đi vòng theo đường Quý Châu tới Tân Châu rồi đến giữ ải Côn Lôn giữa châu Tân và châu Ung. Đến cách Ung 40km thì lực lượng bị Lý Thường Kiệt cho quân đón đánh. Trương Thủ Tiết, Nguyên Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn là những chỉ huy của lực lượng viện binh tương hỗ nhà Tống đều bị giết tại trận. Việc này vào trong thời gian ngày 4 tháng Giêng âm lịch (tức 11 tháng hai năm 1076).

Thành Ung kiên cố lại sở hữu Tô Giám là tướng giỏi, nên quân Đại Việt đánh phá hơn 40 ngày không hạ được. Sau, quân Đại Việt bắt dân Tống, sai lấy túi đất đắp vào chân thành để leo lên đánh. Ngày 1 tháng 3 năm 1076, sau 42 ngày kiên cường kháng cự[8], thành Ung thất thủ. Tô Giám tự sát. Quân Đại Việt giết hết quân và dân trong thành, tổng số khoảng chừng hơn 5 vạn người. Theo Tống sử: “Cứ 100 thây chất làm một đống, cả thảy 580 đống”. Quân Đại Việt tổn thất khoảng chừng 1 vạn người. Lý Thường Kiệt ra lệnh tiêu hủy thành lũy, phá kho tàng dự trữ trong vùng Tả Giang và lấy đá lấp sông chặn đường cứu viện của quân Tống.[5]

Đại Việt rút quânSửa đổi

Việc nhà Lý đánh những châu Liêm, Khâm và Ung đã thành công xuất sắc, tiêu diệt khoảng chừng 7-10 vạn quân và dân nhà Tống, và bắt được hàng nghìn người Trung Quốc đem về Đại Việt làm nô lệ cùng với thật nhiều của cải (vàng, bạc, lụa, vũ khí,…). Sau khi hoàn thành xong được tiềm năng phá hủy toàn bộ những địa thế căn cứ phục vụ hầu cần của đối phương, quan quân nhà Lý rút về nước.

Quân Tống sang đánh Đại ViệtSửa đổi

Lực lượng của TốngSửa đổi

Ngay từ thời gian tháng 11 âm lịch năm 1075, sau khoản thời hạn Đại Việt công hãm Khâm Châu và Liêm Châu, Tống Thần Tông đã phong cho Thiên Chương những đãi chế Triệu Tiết làm An Nam đạo chiêu thảo sứ, Gia Châu phòng ngự sử Lý Hiến làm phó để chinh phạt Đại Việt[9]. Tuy nhiên, Triệu Tiết và Lý Hiến nghị bàn không hợp[10].

8 ngày sau khoản thời hạn thành Ung bị triệt phá, tức ngày 9 tháng hai năm 1076, Tống Thần Tông ra chiếu đánh Đại Việt[5]. Tống sử chép là sau 13 ngày[9].

Mục tiêu của Tống Thần Tông và Vương An Thạch không riêng gì có nhằm mục tiêu phục thù mà vẫn đó là tiềm năng ban sơ việc ra quân đánh vào lãnh thổ Đại Việt: gây nhuệ khí cho mặt trận tây-bắc với Tây Hạ và tạo uy thế với nước Liêu:

Lúc quân ta diệt được Giao Chỉ, uy ta sẽ đã có được. Rồi ra bá cáo cho Thiểm Tây biết, quân dân Thiểm Tây sẽ đã có được thắng khí. Với khí thắng ấy, ta sẽ nuốt tươi nước Hạ. Mà nếu nuốt nước Hạ thì còn ai dám quấy nhiễu Trung quốc nữa?[11]

Lực lượng đánh Đại Việt gồm có tầm khoảng chừng 10 vạn quân, đặt dưới sự chỉ huy của Tuyên Huy nam viện sử Quách Quỳ (chức là An Nam đạo chiêu thảo sứ) và Triệu Tiết là phó tướng, bãi chức của Lý Hiến. Quân Tống gồm 2 thành phần, có 4, 5 vạn quân là binh sĩ có kinh nghiệm tay nghề chiến đấu từng chiến đấu với quân Liêu, Hạ; còn sót lại hơn 5 vạn quân là lính mới tuyển mộ ở những lộ Hà Bắc, Kinh Đông và quân mộ thêm trên đường hành binh từ kinh đô tới Ung Châu, cùng với quân khe động vùng biên giới. Bên cạnh 10 vạn quân chiến đấu, quân Tống còn tồn tại 20 vạn phu dịch và 1 vạn ngựa.[5]

Do phải sẵn sàng lương thực, thuốc men cũng như tuyển mộ quân lính và những yếu tố khác, mãi tới thời gian đầu xuân mới 1077, quân Tống mới xuất phát được. Một đạo quân Tống trên bộ do đích thân Quách Quỳ chỉ huy xuất phát từ châu Ung tiến vào vùng Đông Bắc Đại Việt. Một đạo quân thủy do Dương Tùng Tiên chỉ huy xuất phát từ châu Lôi đi men bờ biển và tiến vào cửa sông Bạch Đằng.[5]

Lực lượng của Đại ViệtSửa đổi

Sau chiến dịch đánh đòn phủ đầu thành công xuất sắc và rút quân về nước, Đại Việt sẵn sàng để đối phó với quân Tống sang đánh. Gián điệp Đại Việt đội lốt sư sãi dùng sách vở tu hành thu được ở Khâm, Liêm. Biết được, nhà vua Tống ra lệnh cho lộ Quảng Tây đình việc cấp bằng cho những sư.[5]

Phía Đại Việt sẵn sàng lực lượng đánh gồm đánh chặn từ xa và tuyến phòng thủ sâu. Tướng Lý Kế Nguyên phụ trách đánh đạo thủy quân của Tống. Còn Lý Thường Kiệt là tổng chỉ huy chung và trực tiếp chỉ huy đánh đạo quân bộ của đối phương. Để ngăn đạo lục quân Tống, Đại Việt sắp xếp hai tuyến phòng thủ – một ngay biên giới do những lực lượng của những thủ lĩnh dân tộc bản địa thiểu số chỉ huy và một ở bờ Nam sông Như Nguyệt (sông Cầu). Tuyến phòng thủ bờ Nam sông Như Nguyệt kéo dãn khoảng chừng 30km suốt từ chân dãy núi Tam Đảo ngã ba sông Cà Lồ-sông Cầu tới Vạn Xuân (Phả Lại) tận dụng những địa hình tự nhiên như bãi lầy, gò cao và cả những chiến lũy bằng đất, gỗ, rào tre.

Các trận đánh thứ nhất của nhà TốngSửa đổi

Ngày 8 tháng một năm 1077[cần dẫn nguồn], Quách Quỳ và Triệu Tiết (趙禼) dẫn quân vượt qua ải Nam Quan tiến vào vùng Lạng Sơn ngày này và đánh xuống phía kinh đô Thăng Long. Ngay từ trên đầu, quân Tống đã gặp phải sự chống cự rất là mạnh mẽ và tự tin của thổ binh do Thân Cảnh Phúc chỉ huy. Tiến công được vài chục dặm, quân Tống buộc phải tổ chức triển khai đột phá ải Quyết Lý. Tại đây Thân Cảnh Phúc đã sắp xếp mấy ngàn quân có cả voi chiến, để cố thủ cửa ải. Tư Kỷ chỉ huy đội tiền quân Tống cố sức công kích nhưng đều bị đẩy lùi. Quân Đại Việt nhờ vào thế đất hiểm, có tổ chức triển khai phòng ngự vững chãi, đánh trả rất là quyết liệt. Quách Quỳ buộc phải cử tướng Thế Cư chỉ huy một đạo tinh binh lên ứng chiến. Thấy cầm cự lâu không tồn tại lợi, Thân Cảnh Phúc đã dữ thế chủ động lui quân về tuyến sau cố thủ cửa ải Chi Lăng. Biết ải Chi Lăng không những là đất hiểm mà còn được xây đắp kiên cố. Quân Tống cho một đội nhóm tiền quân tiến công vào chính diện. Còn hai đạo quân mạnh do Yên Đạt và Thế Cự chỉ huy đi vòng qua phía tây núi Cai Kinh, theo đường đất đánh bọc vào sau Chi Lăng, tạo ra thế hai mặt trước sau cùng đánh. Từ trên thành lũy và trên sườn núi cao, quân Đại Việt dùng nỏ và máy bắn đá bắn kinh hoàng vào đội hình xung phong của quân Tống, đồng thời tượng binh xông ra phản kích. Quân Tống bị thương vong thật nhiều. Nhưng lực lượng chênh lệch rất rộng, tận dụng đêm tối Thân Cảnh Phúc đã chỉ huy quân rút theo đường tắt, lui về phòng giữ địa thế căn cứ Động Giáp, chuyển sang đánh du kích phía sau sống lưng quân Tống.

Trong lúc đại quân của Quách Quỳ đang tiến công sang, thì đạo quân do Nhâm Khởi chỉ huy từ Vĩnh An đánh ngược lên Tô Mậu. Vị thủ lĩnh trấn giữ tại đây, chống cự không nổi, đầu hàng quân Tống. Nhâm Khởi cho quân theo hữu ngạn sông Lục Nam đánh xuống núi Nham Biền để trực tiếp bảo vệ sườn cánh trái của đạo quân Quách Quỳ. Đạo hữu quân do Khúc Trân (曲珍) chỉ huy, từ Quảng Nguyên đánh xuống Môn Châu. Hoàng Kim Mãn trấn giữ châu này đầu hàng quân Tống, thành Môn Châu nhanh gọn bị mất.

Đạo quân Triệu Tiết (phó tướng) là một lực lượng đột kích kế hoạch trên hướng thứ yếu, có sự yểm trợ trực tiếp của hữu quân Khúc Trân phía sườn phải, nhanh gọn vượt biên giới giới xuống Bình Gia, Vạn Nhai. Tại những nơi này quân Đại Việt chỉ có những lực lượng nhỏ án ngữ thế cho nên Triệu Tiết nhanh gọn vượt qua, tiến thẳng xuống Nhã Nam và bến Như Nguyệt.[12]

Trận thủy chiến Đông KênhSửa đổi

Đạo thủy quân Tống do Dương Tùng Tiên chỉ huy, khoảng chừng 5-6 vạn cùng vài trăm con thuyền loại lớn tiến vào hải phận Đại Việt để phối thích phù hợp với đạo quân của Quách Quỳ theo kế hoạch đã định trước. Đạo quân này tiến theo đội hình hàng dọc. Đi đầu là lực lượng với trách nhiệm trinh sát, tiếp sau đó đến trung quân, hậu quân là đoàn thuyền lương. Quân của Dương Tùng Tiên không phát hiện được quân Đại Việt mai phục ở sông Đông Kênh, nên đã lệnh cho toàn quân tiến gấp vào sông Bạch Đằng. Khi hạm đội Tống đã lọt vào trận địa mai phục, Lý Kế Nguyên phát lệnh tiến công. Bị đánh bất thần, quân Tống thua to, dù hạm đội của mình tuy lớn, có nhiều thuyền chiến nhưng chỉ là loại thương thuyền nặng nề cơ động chậm, thủy binh là quân ô hợp. Thủy binh của Đại Việt là những chiến binh thiện chiến, dùng thuyền nhỏ nhẹ, cơ động, lại nhờ vào thế hiểm để lập thành thế trận mai phục dài tới vài chục dặm. Các thủy đội của mình đều nhờ vào hải hòn đảo hoặc cửa sông để triển khai lực lượng.

Trong những trận giao chiến với Đại Việt, quân Tống đều thua lớn. Hơn trăm con thuyền bị đánh chìm, hàng vạn quân bị giết và bị tóm gọn. Dương Tùng Tiên phải ra lệnh cho những con thuyền còn sót lại chạy về phía đông để tránh bị tiêu dệt trọn vẹn. Phải mấy ngày sau họ mới tập hợp được số con thuyền còn sót lại về vùng biển Liêm Châu, lập thủy trại cố thủ.

Thắng lợi của trận thủy chiến Đông Kênh đã làm thất bại trọn vẹn kế hợp vòng kế hoạch của Quách Quỳ, và đẩy Quách Quỳ, Triệu Tiết vào tình hình không tồn tại phương tiện đi lại cho đại quân vượt sông.[13]

Trận sông Như NguyệtSửa đổi

Ngày 18 tháng 1, quân Tống tới bờ Bắc sông Như Nguyệt, trái chiều với tuyến phòng thủ nòng cốt của quân Đại Việt. Quân Tống không đánh ngay mà đợi đạo thủy quân tới để hợp đồng tác chiến vượt sông. Trong khi chờ, đại quân Tống chia thành hai cánh. Cánh phía Tây do Triệu Tiết chỉ huy đóng triệu tập ở vùng nay là Hiệp Hòa. Cánh phía Đông do Quách Quỳ chỉ huy đóng triệu tập ở vùng nay trọn vẹn có thể là thành phố Bắc Ninh. Ở giữa hai điểm triệu tập trên, quân Tống còn chiếm một số trong những vị trí là những gò cao.

Chờ thủy quân không thấy, lục quân Tống quyết định hành động tiến công. Quân Tống đã tổ chức triển khai 2 đợt tiến công lớn. Đợt thứ nhất đã chọc thủng được phòng tuyến của Đại Việt. Nhưng do tiến quân quá nhanh, lực lượng Tống xâm nhập khoảng chừng 1.000-2.000 quân trở nên đơn độc và khi tiến đến vùng Sóc Sơn ngày này thì bị quân Đại Việt vây đánh phải rút lui, chịu tốn thất khoảng chừng 1.000 người. Đợt thứ hai, quân Tống đóng bè lớn để lấy quân sang bờ Nam sông Như Nguyệt, nhưng đợt nào sang cũng trở nên tiêu diệt gần hết. Quân Tống, sau 2 đợt tiến công thất bại đành tiếp tục đợi thủy quân đến.

Sau 2 tháng, thấy quân Tống có tín hiệu mệt mỏi, quân Đại Việt phản công. Ban đầu, quân Đại Việt tổ chức triển khai tiến công vào cánh của Quách Quỳ, tuy nhiên đã chịu thất bại. Hai quý tộc nhà Lý là Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy đợt tiến công này đều quyết tử. Sau thất bại này và nhận thấy quân Tống đang triệu tập để ý vào mặt trận phía Đông, quân Đại Việt liền tổ chức triển khai vượt sông đánh bất thần vào cánh quân phía Tây của Triệu Tiết. Trận này, quân Đại Việt thắng lớn. Trong khi quân Tống rối loạn vì cánh phía Tây bị tập kích, quân Đại Việt tiếp tục đổ xô đánh vào cánh quân phía Đông.

Giảng hòaSửa đổi

Sau khi giành được thắng lợi quân sự chiến lược tại phòng tuyến Như Nguyệt, Đại Việt dữ thế chủ động nghị hòa với quân Tống. Sứ thần Kiều Văn Ứng cho Quách Quỳ biết là vua Lý sẽ sai sứ sang xin tạ tội vì đã nâng quân đánh Khâm Châu và Liêm Châu và xin tiếp tục nộp cống. Ông cũng bào chữa việc đánh Tống trước là vì Từ Bá Tường xúi giục[14]. Tống sử chép rằng phía quân Tống “số quân đem đi 10 vạn, phu 20 vạn, nay đã chết mất quá nửa, số còn sót lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn”[15]. Tống sử, Quách Quỳ truyện chép rằng: 時兵夫三十萬人,冒暑涉瘴地,死者過半。至是,與賊隔一水不得進,乃班師. (“Thì binh phu tam thập vạn nhân, mạo thử thiệp chướng địa, tử giả quá bán. Chí thị, dữ tặc cách nhất thủy bất đắc tiến, nãi ban sư” nghĩa là Đem binh phu đi 30 vạn người, gặp phải nắng nóng đất độc, chết quá nửa. Đến nay, lại cách giặc một dòng sông không thể tiến lên, bèn đem quân về.)[16]. Quách Quỳ nhận lời giảng hòa, nhưng nói rằng: “Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc, bắt được Càn Đức để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng”.[17] Tuy nhiên, Trình Di và Trình Hạo trong Nhị Trình di thư nhận xét rằng: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không tồn tại lời quy thuận của giặc thì làm thế nào?”

Tháng 3 năm 1077, Quách Quỳ rút quân về nước, quân Tống rút đến đâu, quân Đại Việt theo sau chiếm lại đến đó. Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành đêm hôm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau”.

Sau khi về nước, khi kiểm binh, trong số 10 vạn lính Tống ban sơ chỉ từ 23.400 lính trở về, 1 vạn ngựa chiến thì còn sót lại 3.174 con. Số dân phu 20 vạn trở về không được một nửa. Phí tổn cuộc chiến tranh được triều Tống tính ra là 5.190.000 lạng vàng. Quách Quỳ bị quy tội vì đã trì hoãn không chịu tiến binh nên bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí (quản thúc tại gia) ở Tây Kinh. Triệu Tiết chỉ bị kết tội không lập tức dẹp giặc, giáng làm Trực Long Đồ những, tri Quế Châu[18]

Năm Mậu Ngọ (1078) Lý Nhân Tông mở cuộc giao hảo với nhà Tống. Sứ thần Đại Việt là Đào Tông Nguyên đưa năm con voi đã thuần sang cống vua Tống và đi đòi lại những châu, huyện ở miền Cao Bằng. Tống triều ưng thuận với Đk là quân Lý phải trả lại cho nhà Tống những thường dân Tống ở những châu Khâm, Liêm, Ung bị quân Lý bắt đem về nước làm nô tì trong năm 1075. Thường dân Tống bị tóm gọn hơn ngàn người nhưng quân nhà Lý chỉ trả toàn bộ là 221 người[19]. Trước khi cho họ về, nhà Lý cho thích vào trán con trai từ 15 tuổi trở lên ba chữ “Thiên tử binh”, đàn ông từ 20 tuổi trở lên thích chữ “Đầu Nam Triều” và vào cánh tay trái đàn bà con gái hai chữ “Quan Khách” để làm nhục nhà Tống.

Xem thêmSửa đổi

Nhà LýSửa đổi

  • Lý Thường Kiệt
  • Lý Nhân Tông
  • Nùng Tông Đản
  • Phạt Tống lộ bố văn
  • Chiến dịch đánh Tống, 1075-1076
  • Nam quốc sơn hà

Tham khảoSửa đổi

  • Hoàng Xuân Hãn (1996), Lý Thường Kiệt, lịch sử dân tộc bản địa ngoại giao và tông giáo triều Lý, Nhà xuất bản Tp Hà Nội Thủ Đô
  • Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm và Trần Bá Chí (1998), Một số trận quyết chiến kế hoạch trong lịch sử dân tộc bản địa dân tộc bản địa, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Tp Hà Nội Thủ Đô
  • Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư – bản điện tử
  • Đại Việt Sử Lược
  • Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Lịch sử quân sự chiến lược Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
  • Tống Sử
  • Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược – bản điện tử

Chú thíchSửa đổi

  • ^ Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, tr 148
  • ^ Đại Việt Sử Lược-Kỷ nhà Lý
  • ^ Phạm Văn Sơn, Việt Sử Toàn Thư, tr 146
  • ^ Việt Sử Toàn Thư, tr. 147
  • ^ a b c d e f g h i j Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2003), Lịch sử quân sự chiến lược Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Tp Hà Nội Thủ Đô.
  • ^ Hoàn Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr 165
  • ^ Việt Sử Toàn Thư, p. 148
  • ^ Đại Việt Sử Lược-Quyển II
  • ^ a b Tống sử, quyển 15, bản kỷ 15: Thần Tông 2
  • ^ Tống sử, quyển 332, liệt truyện 91 – Triệu Tiết
  • ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr 193
  • ^ Phạm Hồng Sơn, viện quân sự chiến lược cấp cao, nghệ thuật và thẩm mỹ đánh giặc giữ nước của dân tộc bản địa Việt Nam, tập 1, 1990, tr 17-19
  • ^ Phạm Hồng Sơn, viện quân sự chiến lược cấp cao, nghệ thuật và thẩm mỹ đánh giặc giữ nước của dân tộc bản địa Việt Nam, tập 1, 1990, tr 19-20
  • ^ những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử dân tộc bản địa VN tập I, Nguyễn Thế Long Nhà xuất bản GD trang 49
  • ^ Dẫn lại từ Phan Huy Lê và đồng nghiệp.
  • ^ Tống sử, quyển 290, liệt truyện 49: Quách Quỳ
  • ^ Lý Đào trong Tục tư trị thông giám trường biên. Dẫn lại từ Phan Huy Lê và đồng nghiệp.
  • ^ “Bản sao đã tàng trữ”. Bản gốc tàng trữ ngày 20 tháng 8 năm năm nay. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm năm nay.
  • ^ những mẩu chuyện bang giao trong lịch sử dân tộc bản địa VN tập I, Nguyễn Thế Long Nhà xuất bản GD trang 56
  • Reply
    8
    0
    Chia sẻ

    Video full hướng dẫn Chia Sẻ Link Down Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 ?

    – Một số từ khóa tìm kiếm nhiều : ” Video full hướng dẫn Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Tải Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 “.

    Thảo Luận vướng mắc về Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2

    Bạn trọn vẹn có thể để lại phản hồi nếu gặp yếu tố chưa hiểu nha.
    #Nguyên #nhân #của #cuộc #kháng #chiến #chống #Tống #lần Nguyên nhân của cuộc kháng chiến chống Tống lần 2

    Phương Bách

    Published by
    Phương Bách