Mục lục bài viết
Update: 2022-04-01 06:04:11,Bạn Cần tương hỗ về Thế nào là thơ lục bát biến the. You trọn vẹn có thể lại Thảo luận ở phía dưới để Mình đc lý giải rõ ràng hơn.
Cửa sổ tri thức
13:52, 28/03/2011 (GMT+7)
* Trong bài “Có một Hoàng Sa trong đất liền” đăng trên báo Tp Thành Phố Đà Nẵng vào buổi tối thời gian cuối tuần số ra ngày 20-3 vừa qua có câu: “Hoàng Sa lắm hòn đảo nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây”. Về thơ lục bát tôi chỉ nghe biết Truyện Kiều của Nguyễn Du nên thấy hai câu này hơi lạ, không biết có phải vi phạm thơ lục bát không? (Phan Phan, Sơn Trà, Tp Thành Phố Đà Nẵng).
* Thơ lục bát có mấy loại biến thể? (Tập thể những tình nhân thơ ở Khu du lịch thắng cảnh Ngũ Hành Sơn, Tp Thành Phố Đà Nẵng).
– Hai câu thơ “Hoàng Sa lắm hòn đảo nhiều cồn/ Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây” đã được viết theo thể thơ lục bát biến thể.
Nhà thơ Nguyễn Đình Trọng (Đại diện của website lucbat tại thành phố Hồ Chí Minh) trong bài “Biến thể vần bằng, trắc trong thơ Lục Bát?” đăng trên trang này ngày 10-3-2010 đã định nghĩa: Biến thể nghĩa là thể văn có biến hóa đi. Thể này tức cũng là thể lục bát, nhưng thỉnh thoảng có xen vào một trong những ít câu mà cách hiệp vần và luật bằng trắc khác với thể lục bát thường thì.
Theo nhà thơ, có hai cách biến thể trong thơ lục bát như sau: 1- Biến thể vần bằng: Thay đổi cách gieo vần ở câu Bát: Chữ cuối của câu Lục cùng vần với chữ thứ tư của câu Bát thay vì vần với chữ thứ sáu (như luật thường thì). Theo lối biến thể này, những chữ thứ hai và thứ sáu trong câu Bát phải chuyển sang thanh trắc thay vì thanh bằng theo luật gieo vần. Ví dụ: Khâu rồi anh sẽ trả công/ Ít nữa lấy chồng anh lại hỗ trợ cho (bài ca dao “Tát nước”) 2- Biến thể vần trắc: Chữ cuối của câu Lục và chữ thứ sáu của câu Bát cùng là âm trắc và hiệp vần với nhau. Thông thường, cách biến thể này chỉ được sử dụng trong hai câu dẫn nhập của bài. Những câu tiếp sau này sẽ theo như đúng luật thơ. Chẳng hạn như bài ca dao: Tò vò mà nuôi con nhện/ Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi/ Tò vò ngồi khóc tỉ ti/ Nhện ơi nhện hỡi, mày đi đằng nào?.
Một số tác giả khác đưa ra 3 loại lục bát biến thể như sau:
1- Biến đổi cấu trúc bằng trắc: a. Câu Lục không thay đổi, câu Bát biến hóa chữ thứ hai thành thanh trắc: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra (ca dao). b. Cả câu Lục và câu Bát đều biến hóa chữ thứ hai thành thanh trắc: Có xáo thì xáo nước trong/ Đừng xáo nước đục đau lòng cò con (ca dao). 2- Biến đổi cách ngắt nhịp: Câu Bát không thay đổi, câu Lục biến hóa chữ thứ hai thành thanh trắc và ngắt nhịp ở chữ thứ ba: Mai cốt cách | tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười (Truyện Kiều – Nguyễn Du). 3- Biến đổi cách gieo vần: Chữ thứ tư câu Bát hiệp vần với chữ cuối câu Lục: a. Câu Lục không thay đổi, câu Bát biến hóa cấu trúc bằng trắc: Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non (ca dao). (Tương tự Biến thể vần bằng của nhà thơ Nguyễn Đình Trọng nói trên).
b. Cả câu Lục và câu Bát đều biến hóa cấu trúc bằng trắc: Cưới vợ thì cưới liền tay/ Chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha (ca dao)
Nói thêm, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là không tồn tại những câu lục bát biến thể. Ví dụ: “Mai cốt cách, tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười” (câu 17); “Đau đớn thay, phận đàn bà!/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” (câu 83).
ĐNCT
Lục Bát có nguồn gốc từ Ca Dao. Vì thế, khi muốn tìm hiểu về thơ Lục Bát, những học giả đều nhờ vào ca dao.
Do nguồn gốc từ giới dân dã ít học, nên nhiều người nghĩ rằng thơ Lục Bát quá đơn thuần và giản dị, không trở ngại như Thơ Đường Luật, không thiết yếu phải học hỏi hay chú trọng cho lắm. Có lẽ cũng đúng thôi, nhưng chính cái đơn thuần và giản dị trong thơ Lục Bát, mới làm cho nhiều người nghĩ rằng không thiết yếu phải tìm hiểu cặn kẽ về thể thơ này, từ đó không nắm hết những đặc tính của thơ Lục Bát, vì vậy đôi lúc đưa ra những nhận xét, phê bình có phần rơi lệch về loại thơ này..
A – Lục Bát Chính Thể (Lục Bát Chính Thức)
Khi nghiên cứu và phân tích thơ Lục Bát, những học giả và nhà nghiên cứu và phân tích đều đồng ý với nhau về điểm rực rỡ trong cách gieo vần ở thơ Lục Bát. Đây là nét độc lạ và rất khác nhau trong thơ Việt, đó là Vần gieo với nhau vừa Vần Lưng (Yêu Vận) lẫn Vần Chân (Cước Vận). Chính vì thế nhà nghiên cứu và phân tích Lam Giang viết trên quyển “Khảo Luận Luật Thơ” phát hành năm 1967 đã gọi Thi Pháp trong thơ Lục Bát là Quốc Phong, nói rõ hơn là tiết điệu trong thơ Lục Bát đó là Quốc Phong, điều này sẽ không một loại thơ nào trên toàn thế giới đã có được.
Theo kết luận những nghiên cứu và phân tích, thường thì thơ Lục Bát sử dụng Thanh Bằng để gieo vần, và chữ cuối câu 6 gieo vần với chữ thứ 6 câu 8. Chữ cuối câu 8 gieo vần với chữ cuối câu 6 phía dưới, và cứ thế tiếp tục cho tới hết bài thơ.
Có một điều thật thú vị là hình thức, thể cách, cú điệu của thể loại thơ bác học (*) lại không phong phú bằng thể thơ dân dã này. Chính vì thế toàn bộ chúng ta thấy rằng, thơ Lục Bát không hề cứng nhắc như luật thơ Lục Bát của những học giả nêu ở phía tại đây. Sự phóng khoáng của ca dao nói chung và Lục Bát nói riêng được thể hiện thật phong phú chủng loại:
– Luật Bằng Trắc (Luật Thanh)
Về Luật Bằng Trắc (Luật Thanh), những nhà Nghiên cứu có cùng quan điểm về Luật Thanh cơ bản của thơ Lục Bát là:
B B T T B B
B B T T B B T B
B B T T B B
B B T T B B T B
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
Em được thì cho em xin
Hay là em để làm tin trong nhà…
– Đa Dạng Trong Luật Thanh
Trong thơ Lục Bát, luật Thanh không cố định và thắt chặt, Bằng trọn vẹn có thể trở thành Trắc, hay Trắc trọn vẹn có thể đổi thành Bằng:
Mùng Tám tháng tám không mưa
Chị em bán cả cày bừa mà ăn
Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo thì lòng mới ngon
Số cô chẳng giàu thì nghèo
Ngày 30 tết thịt treo trong nhà
– Gieo Vần Trắc
Theo Luật Vận cơ bản, vần gieo phải là Bằng, tuy nhiên trong thơ Lục Bát, việc gieo Vần Trắc không phải hiếm. Khi viết về Lục Bát Chính Thể, Giáo sư Dương Quảng Hàm lại lấy thí dụ là bài ca dao gieo vần Trắc (trang 9 Việt Nam Văn Học Sử Yếu) :
Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ tê
Nhện ơi nhện hỡi mầy đi đàng nào
Thêm những thí dụ về Vần Trắc:
Con kiến bò qua ổ mối
Anh báo với nàng để tối anh qua
Tình thương gươm trường không sợ
Sét đánh bên mình duyên nợ không buông
– Uyển Chuyển Trong Luật Vận :
Trong thơ Lục Bát, những vần gieo không hẳn ở chữ thứ 6 câu 8 mà trọn vẹn có thể ở chữ thứ 4:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi ông vớt tôi vào
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng…
Tỏ trăng mười bốn được tằm
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm
B – Lục Bát Biến Thể (Lục Bát Biến Thức)
– Theo Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu của Giáo sư Nghiêm Toản do nhà sách Vĩnh Bảo Sài Gòn phát hành năm 1949 có nói về Lục Bát ở trang 19 quyển 1 như sau:
“…Lục Bát Biến Thể là trong những câu 6-8 thường đặt những chữ đệm chêm thêm vào…”
– Theo Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm, trong phần Thể Văn nơi trang 9, Ông có viết:
“Thể Lục Bát Chính Thức ( câu 6 câu 8 tiếp nối đuôi nhau nhau) hoặc Lục Bát Biến Thức (thỉnh thoảng có xen những câu dài hơn thế nữa 6 hoặc 8 chữ)
Thí dụ:
Con cuốc kêu réo rắt trên ngàn
Gà rừng tao tác gọi con tha mồi
Lạnh lùng thay láng giềng ôi
Láng giềng lạnh ít sao tôi lạnh nhiều.
Bắc thang lên thử hỏi trăng già
Phải rằng phận gái hạt mưa sa giữa trời
May ra gặp được giếng khơi
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn…
Dòng sông chung một con đò
Sao anh tiếc của chẳng đưa đồ hỏi xin?
Ai có mong ước lau chen với đậu
Qua không đành đánh bùn lộn với sen
Trước chưa quen sau cũng là quen
Qua chẳng hề tham nguyệt chê đèn như ai.
Ai làm cho đó bỏ đây
Cho con chim nhạn xa cây ngô đồng
Anh xa em vì ngọn gió đông
Anh có vợ năm trước đó em có chồng năm tiếp theo
Anh với em như cá một bàu
Dầu xa đi nữa, có gặp nhau đừng buồn.
Từ những biến thể của cách gieo vần trắc và biến thể trong thơ Lục Bát, đã dẫn đến dạng thơ Song thất Lục Bát
Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc
Con chàng còn trướng nước thơ ngây
Có hay chàng ở đâu đây
Thiếp xin mượn cánh chấp bay theo chàng
hay Lục Bát Song Thất …
Nhớ em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang
Phá Tam Giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ nội tán cấm nghiêm.
Ai kêu ai hú bên sông
Tôi đang sắm sửa cho chồng xuống ghe
Chồng xuống ghe, quạt che, tay ngoắt
Cất mái chèo, ruột thắt từng cơn
Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Ai làm anh phải xa em
Cho cây xa cội cho đêm xa ngày
Đêm với ngày, anh quay chỉ thắm
Sợi thẳng, sợi đùn (chùng) nghĩ mà giận ông tơ.
C – Kết Luận
Một khi tìm hiểu sâu về thơ Lục Bát, toàn bộ chúng ta mới nhận thức được Thơ Lục Bát không hề đơn thuần và giản dị, nếu không thích nói là rắc rối hơn cà Đường Luật Thi của Trung Hoa, do sự phong phú chủng loại và phóng khoáng. Chính vì sự phóng khoáng này mà nhiều người không hiểu biết, nên nhận định rằng thơ Lục Bát gieo vần trắc là sai luật.
Có nhiều người khi thấy một bài Lục Bát gieo Vần Trắc, hay gieo Vần ở chữ thứ 4 của câu 8 chữ, đã vội cho là Lục Bát Biến Thể, đấy là một kết luận trọn vẹn sai, vì hình dạng thơ không hề thay đổi, vẫn là những câu 6 và 8, thì không thể gọi là Lục Bát Biến Thể.
Một điểm lưu ý không hề lẫn lộn với thơ nào của thơ Lục Bát, đó là gieo vần giữa câu và gieo vần cuối câu. Một bài thơ nếu những câu không hẳn là những câu 6 và 8 nhưng vẫn giữ đúng nguyên tắc gieo Vần cả Yêu Vận và Cước Vận thì đó đó là thơ Lục Bát vậy.
Huỳnh Hữu Đức
(*) Văn thơ hay văn chương bác học là loại văn thơ có chữ viết, thường được quan lại triều đình sử dung, trái với văn chương dân dã là loại truyền khẩu.
Page 2
Trang chủ
Sơ Lược Trường Trung Học Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long
Cộng Tác Viên
Chủ Trương
Hỏi Ngã Chính Tả Tự Vị
Y Học Thường Thức
▼
Reply
6
0
Chia sẻ
– Một số từ khóa tìm kiếm nhiều : ” Video full hướng dẫn Thế nào là thơ lục bát biến the tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Download Thế nào là thơ lục bát biến the “.
You trọn vẹn có thể để lại Comment nếu gặp yếu tố chưa hiểu nghen.
#Thế #nào #là #thơ #lục #bát #biến Thế nào là thơ lục bát biến the