Mục lục bài viết
Thủ Thuật Hướng dẫn Cultural relativism: là gì Mới Nhất
Cập Nhật: 2021-12-24 10:35:07,Bạn Cần kiến thức và kỹ năng về Cultural relativism: là gì. Bạn trọn vẹn có thể lại Comment ở phía dưới để Admin đc tương hỗ.
1- Thuyết tương đối ( relativism) là gì và nguy hại ra sao ?
2- Người ly dị đã có được phép xưng tội và rước Lễ hay là không ?
3- Tại sao những giáo phải Tin Lành và cả Chính Thống Giáo đều cho linh mục (mục sư Tin Lành) kết hôn mà Giáo Hội Công Giáo lại cấm ?
Trả lời :
1- Thuyết tương đối ( relativism) là một triết thuyêt (philosophy) đa phần phủ nhận mọi tiêu chuẩn hay chân lý tuyệt đối về luân lý, vì nhận định rằng mọi luật lệ thành viên hay phổ quát về luân lý chỉ là vì con người áp đặt nên không tồn tại cơ sở vững chãi để bắt buộc ai phải tuân giữ.
Thuyết này chia ra ba loại chính tại đây:
a– Tương đồi về tư tưởng (psychological relativism) : nhận định rằng mọi ý thức về luân lý của một người là kết quả đào luyện của người đó trong môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên mái ấm gia đình.
Nghĩa là nếu thành viên chịu tác động tốt trong mái ấm gia đình thì có ý niệm tốt về luân lý và ngược lại.
b– Tương đối về xã hội ( social relativism) :nhận định rằng mọi ý thức về luân lý là kết quả của việc giáo dục trong môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên xã hội. Nghĩa là tình hình xã hội và việc giáo dục cấu trúc nên ý thức luân lý của một người chịu tác động đó
c– Tương đối về mặt kinh tế tài chính: ( Economic relativism) đấy là quan điểm của Carl Max, một trong những lý thuyết gia của chủ nghĩa cộng sản ( communism) và xã hội chủ nghĩa ( sociolism) chủ trương rằng ý thức luân lý của con người chỉ là kết quả chi phối bởi tình trạng kinh tế tài chính của người chịu tác động đó.
Dĩ nhiên , Giáo Hội , dựa vào niềm tin và lý lẽ hay lý trí ( faith and reason) đã trọn vẹn bác bó thuyết tương đối nói trên vì nó đi ngược lại với giáo lý và niềm tin có Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trọn tốt trọn lành . Ngài hình thành con người dân có lý trí , có ý muốn tự do ( không lấy phí will) và lương tâm để biết việc thiện phải làm và điều gian ác, xấu sa phải tránh. Vì thế , Thiên Chúa chỉ phán đoán riêng con người về những gì con người làm với lý trí , ý muốn tự do và lương tâm . Mặt khác, Giáo Hội cũng tin và dạy không sai lầm đáng tiếc rằng phải có chân lý phổ quát về luân lý ( universal truth of morality) buộc mọi người ở khắp mọi nơi và mọi thời đại phải tuân theo để con người khác lạ với mọi loài cầm thú chỉ sống với bản năng và không tồn tại ý thức gì về lành dữ. Luật luân lý phổ quát này ngăn cấm những hành vi nhân linh( human act) như giết người ( trừ trường hợp tự vệ chính đáng) , hiếp dâm, thù nghịch, gian ác, gian dâm, mãi dâm, ấu dâm ( child prostitution) gian tham, bất công, bóc lột, tẩy chay về mầu da, hành hạ súc vậtlà những sự dữ tự thực ra ( intrinsic evils) nên không thể biện minh được vì bất kể nguyên do và tình hình nào. Nghĩa là không thể lấy nguyên do giáo dục mái ấm gia đình hay môi trường tự nhiên vạn vật thiên nhiên xã hội hoặc tình hình kinh tế tài chính để biện minh cho việc giết người, hiếp dâm, bóc lột người khác, thù ghét ai vì mầu da , tiếng nói và nhất là phá thai hay giết thai nhi được. Không có tình hình nào được cho phép làm những sự dữ nói trên theo luân lý Kitôgiáo. Chắc chắn như vậy.
Thánh Phaolô đã và đang liệt kê những sự xấu , xét về mặt luân lý, là sai trái như sau:
Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ: đó là dâm bôn, ô uế, phóng đãng , thờ quấy , phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tương, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những điều khác tựa như vậy. Tôi bảo trước cho mà biết, như tôi đã từng bảo : những kẻ làm những điều này sẽ không còn được thừa kế Nước Thiên Chúa.. ( Gl 5: 19-21)
Tóm lại thuyết tương đối là một nguy hại cho niềm tin có luân lý phổ quát buộc con người phải xa tránh những sự dữ tự thực ra như nói ở trên để làm những sự thiện, mưu ích cho phần rỗi của tớ và cho những người dân khác.
2- Những người li hôn đã có được xưng tội rước lễ hay không ?
Để vấn đáp vướng mắc này, ta cần phân biệt hai trường hợp tại đây :
a-Nếu đã li hôn ngoài tòa dân sự mà không được tháo gỡ hôn phối ( tiêu hôn = annulment) của toà án hôn phối của Giáo phận ( Diocesan Tribunal) và lại sống chung với những người khác ví như vợ, chồng thì trong thời gian tạm thời không được lãnh nhận những bí tích Thánh Thể và Hòa giải. Nghĩa là không được xưng tội và rước lễ bao lâu tình trạng hôn phối không được xử lý và xử lý thỏa đáng theo giáo luật,chứ không theo luật của xã hội. Giáo Hội không công nhận việc li hôn ở ngoài tòa dân sự, mà chỉ cứu xét xem việc kết hôn của người nào này đã thành bí tích ngay từ trên đầu chưa để quyết định hành động cho tiêu hôn hay là không.
b-Nhưng nếu sau khoản thời hạn li hôn mà không sống chung với ai như vợ, chồng thì không tồn tại ngăn trở gì để đi xưng tội và rước Mình Thánh Chúa.
Vậy nếu biết ai rơi vào những trường hợp trên thì xin khuyên bảo họ cho thích hợp.
3- Tại sao Giáo Hội Công Giáo không cho giáo sĩ và tu sĩ kết hôn ?
Các giáo phái Tin Lành, Anh giáo và cả Chính Thống Đông Phương đều không tồn tại luật độc thân ( celibacy) thì đó là quyền của mình.Riêng Chính Thống chỉ chọn giám mục trong số linh mục độc thân và được cho phép những giáo sĩ , trước lúc lãnh chức linh mục, được tự do chọn kết hôn hay là không. Nếu đang không chọn kết hôn ở cấp phó tế, thì sẽ không còn được kết hôn sau khoản thời hạn làm linh mục. Vì thế, trong hàng linh mục Chính Thống có hai thành phần kết hôn và không kết hôn.Chỉ có giám mục buộc phải độc thân mà thôi.
Riêng Giáo Hội Công Giáo, thì luật độc thân mới chỉ có từ thế kỷ thứ 11 trở lại đây thôi. Trước đó, trong ba thế kỷ đầu sau ngày Chúa Giêsu về Trời, tuy không tồn tại luật rõ rệt , nhưng hầu hết những giáo sĩ ( giám mục và linh mục) đều tự nguyện sống khiết tịnh ( continence). Mãi sau năm 305, Công Đồng Elvira và Công Đồng Rôma năm 386 và hai Công Đồng nữa họp ở Carthage, đã đưa tới khuyến nghị giám mục và linh mục phải sống khiết tịnh. Nhưng mãi sau thế kỷ 11, dưới thời cố Giáo Hoàng Gregory VII ( 1073- 85) luật độc thân ( celibacy) mới chính thức được vận dụng cho tới nay.
Nhưng phải nói rõ là luật độc thân vận dụng cho hàng giáo sĩ, tu sĩ Công giáo không phải là luật của Chúa mà là của Giáo Hôi đưa ra vì quyền lợi cho sứ vụ ( ministry) phục vụ của Giáo Hội hầu mang quyền lợi thiêng liêng cho dân Chúa được trao phó cho mình , rõ ràng là cho những giám mục và linh mục coi sóc, dẫn dắt và thánh hóa với những Bí tích. Giáo Hội , khi ban luật độc thân này, chắc đã đọc lời Chúa Giêsu vấn đáp cho những môn đệ trong Matthêu 19: 11-12 như sau:
không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ những ai được Thiên Chúa cho hiểu, mới hiểu. Quả vậy, có những người dân là hoạn nhân vì từ lòng mẹ sinh ra đã như vậy. Có những người dân là hoạn nhân vì bị người ta hoạn. Và có những người dân là hoạn nhân do họ tự ý sống như vậy vì Nước Trời. Ai hiểu được thì hiểu.
Thánh Phaolô cũng khuyến khích ý nghĩa và giá trị sống độc thân như sau:
Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo ngại điều gì. Đàn ông không tồn tại vợ thì lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người. Còn người dân có vợ thì lo ngại việc đời : họ tìm cách làm đẹp lòng vợ. Như thế họ bị chia đôi. ( 1 Cor 7: 32- 34).
Tóm lại, kỷ luật độc thân cho hàng giáo sĩ và tu sĩ Công giáo được vận dụng vì quyền lợi cho sứ vụ rao giảng, dạy dỗ và làm chứng cho Tin Mừng của hàng giáo sĩ, tu sĩ. Đây là yếu tố khôn ngoan của Giáo Hội và cũng thể hiện ước muốn quyết tử tự nguyện sống khiết tịnh vì Nước Trời của hàng giáo sĩ, tu sĩ, địa thế căn cứ trên chính lời của Chúa Kitô nói trên đậy.
Chúng ta cầu xin và kỳ vọng Giáo Hội sẽ không còn bỏ luật độc thân để chiều theo yên cầu của thời đại tục hóa ngày này.Nếu chiều theo, thì vẫn còn phải cho toàn bộ phụ nữ có chồng làm linh mục nữa, và như vậy Giáo Hội sẽ tự xích míc với chính mình và làm thiếu tin tưởng của con cháu muốn trung thành với chủ với những truyền thống cuội nguồn tốt đẹp được lưu truyền lại từ những Thánh Tông Đồ.
Giáo Hội không phải là một cơ chế chính trị, mà phải thay đổi theo trào lưu của thời đai. trái lại, Giáo Hội là một định chế thiêng liêng ( sacred Institution) được Chúa Kitô thiết lập trên nền tảng những Tông Đồ, với thiên chức cao quý là tiếp tục Sứ Mệnh cứu chuộc của Chúa Kitô cho tới ngày mãn thời hạn. Và để trung thành với chủ với Sứ Mệnh đó, Giáo Hội phải có can đảm và mạnh mẽ đi ngược dòng thác lũ của những chủ thuyết vô thần, vô luân, tôn thờ vật chất, chủ nghĩa tương đối và tục hóa ( vulgarism) đang bành trướng ở khắp nơi để lôi kéo con người vào thảm họa chối bỏ Thiên Chúa là Nguồn mạch phát sinh mọi sự tốt lành, thiện hảo, niềm hạnh phúc và bình an. Chúa nói : Ai có tai nghe thì nghe.( Mt 13: 43; Mc 7: 16; Lc 14: 35)
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
Reply
7
0
Chia sẻ
Review Chia Sẻ Link Download Cultural relativism: là gì ?
– Một số Keyword tìm kiếm nhiều : ” Video full hướng dẫn Cultural relativism: là gì tiên tiến và phát triển nhất , Share Link Down Cultural relativism: là gì “.
Giải đáp vướng mắc về Cultural relativism: là gì
Quý quý khách trọn vẹn có thể để lại Comments nếu gặp yếu tố chưa hiểu nha.
#Cultural #relativism #là #gì
Bình luận gần đây