Mục lục bài viết

Mẹo Hướng dẫn Học thiền tứ niệm xứ ở đâu Chi Tiết

Cập Nhật: 2022-03-08 01:47:11,Quý khách Cần tương hỗ về Học thiền tứ niệm xứ ở đâu. You trọn vẹn có thể lại Thảo luận ở phía dưới để Tác giả đc lý giải rõ ràng hơn.

572

Ðạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, là thuyền bát nhã cứu vớt những sanh linh đang đắm chìm trong sông mê bể khổ, đang trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi. Ðạo Phật cũng là đạo bình đẳng và tự giác cho toàn bộ những ai muốn tìm tới con phố hướng thượng của sự việc giải thoát và giác ngộ.

Kinh Pháp Cú có câu: “Người thấm nhuần giáo pháp sống niềm hạnh phúc với tâm an nhàn. Hàng trí tuệ luôn luôn hoan hỷ trong giáo pháp mà những bậc thánh nhơn đã tìm ra”.

Ngược dòng thời hạn để xem lại quá khứ, Thái tử Tất-đạt-đa thấy đời sống là bể khổ, chúng sanh đang trôi lăn trong vòng sanh sanh, tử tử với cảnh, già, bệnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu não, đang diễn bày trước mắt, do vậy Ngài đã từ bỏ ngai vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh để đi tìm một công án cho chính mình đó là- giải thoát cho toàn bộ chúng sinh khỏi vòng luân hồi sanh tử. Ngài đã từ giã hoàng cung vào một trong những đêm trăng thanh khi sao mai vừa mới mọc cùng con kiền trắc và Sa-nặc vượt dòng sông A-nô-ma để đi tìm chân lý.

Ngài đến học đạo với hai đạo sĩ tên là Alara Kalama và Adduka Ramaputta và đã chứng được hai trạng thái thiền Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ…

Ðầu tiên Ngài đến học đạo với hai đạo sĩ tên là Alara Kalama và Adduka Ramaputta và đã chứng được hai trạng thái thiền Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng Ngài nghĩ rằng hai quả vị này chưa phải là những quả vị tối thượng như Ngài mong ước. Rồi Ngài từ giã hai vị này để đi tìm chân lý cho công án của chính mình.

Trải qua sáu năm trường tu khổ hạnh, nhưng Ngài vẫn không đạt được kết quả gì:

Sáu năm tầm đạo chốn rừng già 

Khổ hạnh ai bằng Ðức Thích Ca

 Chim hót trên vai sương phủ áo 

Hươu kêu bên núi tuyết đơm hoa.

Sau đó Ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh này, trở về với con phố trung đạo. Ngài đến Bodhgaya ngồi nhập định dưới cội Bồà-đề và phát nguyện rằng: “Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan ta cũng quyết không đứng lên khỏi chỗ này.”

“Nếu ta không thành đạo thì dù thịt nát xương tan ta cũng quyết không đứng lên khỏi chỗ này.”

Trong 49 ngày đêm ngồi tham thiền nhập định, Ngài đã chiến đấu với giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, mạn nghi và chiến đấu với giặc Thiên ma do Ma vương ba tuần chỉ huy. Sau khi thắng được giặc ở nội tâm và ngoại cảnh, tâm trí được khai thông, Ngài hốt nhiên đại ngộ, chứng được quả vô thượng chánh đẳng chánh giác và trở thành Ðức Phật Thích-ca-mâu-ni.

Ðức Phật vì một đại nguyện lớn lao, vì một lòng từ bi vô bờ bến mà xuất gia tìm đạo. Ðại nguyện và lòng từ bi to lớn ấy là: “Cầu thành Phật quả để trên đền đáp bốn ơn sâu, dưới cứu vớt ba đường khổ.” Do vậy sau khoản thời hạn giác ngộ Ngài không nhập Niết-bàn ngay, mà liền nghĩ đến việc giáo hoá chúng sanh.

Tất cả chúng sanh không phân biệt đẳng cấp và sang trọng, chủng tộc, sang hèn, nếu thực hành thực tế theo giáo lý của Ngài ắt sẽ tiến hành an vui, giải thoát, tịch tịnh. Sự giải thoát theo đạo Phật không ở đâu xa, mà ngay trong môi trường sống đời thường hiện tại này. Con đường giải thoát mà Ngài đã dạy cho toàn bộ chúng ta qua tầm cỡ Nikàya, đó là Giới, Định và Huệ. Kinh Tứ Niệm Xứ dạy rằng:

“Này những tỳ-kheo, đấy là con phố độc nhất đưa tới thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ niết bàn, đó là bốn niệm xứ.”

Bốn niệm xứ đó là: quán thân trên thân; quán thọ trên những thọ; quán tâm trên tâm và quán pháp trên những pháp.

Tứ niệm xứ là pháp môn Chỉ-Quán hay Ðịnh-Tuệ tuy nhiên tu. Nhưng trước lúc đi vào thực tập chỉ quán tuy nhiên tu Ngài dạy toàn bộ chúng ta phải giữ gìn giới luật, có trì giữ giới luật thì thân tâm mới trong sáng, nhẹ nhàng để xộc vào hành thiền đạt nhiều kết quả tốt đẹp.

Giới luật như hàng rào ngăn ngừa không cho ngoại ma xâm nhập vào, giữ gìn nội tâm yên tịnh, để đi vào định một cách thuận tiện và đơn thuần và giản dị, do vậy Ðức Phật luôn dạy đệ tử của Ngài phải hành trì giới luật trước lúc hành thiền. Ðiều này được đức Phật nói rõ trong bài Ðại Kinh Xóm Ngựa tại đây:

– Phải biết tàm quí trong lúc nhận của cúng dường.

– Thân hành, khẩu hành, ý hành, sanh mạng phải được thanh tịnh, minh chánh.

 – Phải hộ trì những căn.

– Phải tiết độ trong ăn uống.

– Phải chú tâm cảnh giác.

Sau khi trì giới làm cho thân thanh tịnh, toàn bộ chúng ta lựa một chỗ thanh vắng như thiền đường, gốc cây, khu rừng rậm, hay bất kể nơi nào thuận tiện và tự do cho việc hành thiền, rồi toàn bộ chúng ta ngồi kiết già, sống lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt, rồi thực hành thực tế phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra (Anàpànasati). Trong Kinh Một Pháp, Ðức Phật dạy phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra với 16 đề mục: bốn đề mục về thân; bốn đề mục về thọ; bốn đề mục về tâm và bốn đệ mục về pháp.

Ðức Phật dạy phương pháp niệm hơi thở vô, hơi thở ra với 16 đề mục: bốn đề mục về thân; bốn đề mục về thọ; bốn đề mục về tâm và bốn đệ mục về pháp.

Pháp môn này thuộc về pháp môn Tứ Niệm Xứ (cattàro–satipatthàna), tức là pháp môn đề cập đến bốn chỗ (xứ) để an trú niệm tức là thân, thọ, tâm và pháp. Pháp môn Anàpànasati này đề cập đến 16 đề tài về thân, bốn đề tài về thọ, bốn đề tài về tâm, và bốn đề tài về pháp. Người hành thiền vừa thở vô, vừa thở ra, vừa suy tư quán tưởng trên 16 đề tài liên hệ đến hơi thở.

Pháp môn này cho toàn bộ thiền định và trí tuệ, gồm chỉ (samatha) và quán (vipasana). Cả hai chỉ quán đều tuy nhiên tu trong pháp môn này. Khi dùng tầm tứ cột tâm trên hơi thở vô hơi thở ra, như vậy là chỉ, như vậy là định. Khi lấy trí tuệ quán sát 16 đề tài được lựa chọn, như vậy là quán, như vậy là tuệ.

Tu tập thiền chỉ thì trọn vẹn có thể chứng được từ sơ thiền đến tứ thiền, rồi từ không vô biên xứ đến phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau đó dùng thiền quán để chứng được diệt thọ tưởng định. Hoặc trọn vẹn có thể từ tứ thiền rồi chuyển qua thiền quán để hướng tâm đến túc mạng trí, sanh tử trí, và lậu tận trí. Khi hướng tâm đến lậu tận trí vị ấy biết như thực: “Đây là khổ, đấy là nguyên nhân của khổ, đấy là con phố đưa tới khổ diệt, đấy là những lậu hoặc, đấy là nguyên nhân của lậu hoặc, đấy là những lậu hoặc diệt, đấy là con phố đưa tới những lậu hoặc diệt. Nhờ vậy vị ấy thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu… vị ấy biết sanh đã tận phạm hạnh đã thành việc cần làm đã làm ; không tồn tại trở lui đời sống này nữa.” Vì thế nên thiền quán đóng một vai trò rất quan trọng trong tiến trình đưa tới giải thoát.

Nhìn vào môi trường sống đời thường sau khoản thời hạn thành đạo của đức Từ phụ toàn bộ chúng ta thấy, nếp sống hằng ngày của Ngài có hai việc đó là thuyết pháp và hành thiền. Ngài là vị chánh đẳng chánh giác, là bậc được thế nhân tôn sùng, kính lễ, nhưng Ngài vẫn hành thiền mỗi ngày, đó là vì Ngài muốn làm gương để sách tấn chư đệ tử của Ngài phải luôn tinh tấn hành thiền. Chúng ta thường gặp hai lời khuyên của Ðức Phật cho những tỳ-kheo xuất gia:

“Này những tỳ-kheo, khi những người dân hội họp lại thường có hai việc phải làm: một là đàm luận về phật pháp, hai là giữ im re của bậc thánh”. Sự im re của bậc thánh ở đấy là hành thiền.

Lời dạy thứ hai là lời khuyên hành thiền của Ðức Phật: “Này những tỳ-kheo, đấy là gốc cây, đấy là những tòa nhà trống, này những tỳ-kheo, hãy tu thiền, chớ có phóng dật, chớ có sanh lòng hối hận về sau. Ðây là lời giáo huấn của Ta cho những ngươi.” 

Và khi sắp nhập Niết-bàn, Ðức Phật nhắc đi nhắc lại nếp sống của một tỳ-kheo tối thắng là tu thiền định, thiền quán.

“Này Anada, ở đời, vị tỷ kheo, so với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời, so với những cảm thọ … so với tâm … so với những pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này, Anada, như vậy vị tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một vật gì khác.”

Ðức Phật luôn luôn dạy những đệ tử của Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước lúc nhập diệt, phải tinh tấn hành thiền, vì chỉ có một con phố duy nhất đưa tới giác ngộ giải thoát đó là hành thiền.

Ðức Phật luôn luôn dạy những đệ tử của Ngài, ngay lúc Ngài còn sống, cũng như trước lúc nhập diệt, phải tinh tấn hành thiền, vì chỉ có một con phố duy nhất đưa tới giác ngộ giải thoát đó là hành thiền.

Như toàn bộ chúng ta thấy bậc Ðạo Sư của toàn bộ chúng ta trước lúc thành đạo, Ngài đã có nhiều kinh nghiệm tay nghề về thiền như vậy và đã tự mình mày mò ra con phố giới định tuệ đưa tới giác ngộ giải thoát, cho tới khi thành đạo và trong cả trước lúc Niết bàn Ngài cũng hành thiền định.

Trong suốt 45 năm tiếp theo khoản thời hạn thành đạo Ngài thuyết pháp, hành thiền và dạy đệ tử hành thiền, những bài thuyết pháp của Ngài đều nhấn mạnh vấn đề về thiền.

Chúng ta là những người dân hậu học, đang trên đường tu tập, để nối bước theo dấu chân Ngài, toàn bộ chúng ta phải tinh tấn thiền định, nhưng trước lúc thiền định phải giữ gìn giới luật nghiêm minh, vì có giới mới đi vào định được, khi định được viên mãn thì trí tuệ phát sanh.

Trí tuệ là lưỡi gươm sắc bén nhất, trọn vẹn có thể cắt đứt được tận gốc rễ của phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi, tựa như cây Tala một khi bị cắt đứt ngọn thì không thể mọc lên được nữa. Khi những kiết sử được đoạn tận gốc rễ, toàn bộ chúng ta mới được an vui, giải thoát. Sự an vui giải thoát này sẽ không ở đâu xa, mà chính ở ngay trong môi trường sống đời thường này.

Vì thế nên, toàn bộ toàn bộ chúng ta, giờ giờ, khắc khắc phải tinh tấn tu học, thực hành thực tế Tam vô lậu học (giới-định-tuệ). Vì đó là con phố duy nhất đưa toàn bộ chúng ta đến cõi an vui, giải thoát, tịch diệt, và Niết-bàn.

Reply
4
0
Chia sẻ

đoạn Clip hướng dẫn Share Link Cập nhật Học thiền tứ niệm xứ ở đâu ?

– Một số Keywords tìm kiếm nhiều : ” đoạn Clip hướng dẫn Học thiền tứ niệm xứ ở đâu tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Cập nhật Học thiền tứ niệm xứ ở đâu “.

Giải đáp vướng mắc về Học thiền tứ niệm xứ ở đâu

Bạn trọn vẹn có thể để lại Comment nếu gặp yếu tố chưa hiểu nha.
#Học #thiền #tứ #niệm #xứ #ở #đâu Học thiền tứ niệm xứ ở đâu