Mục lục bài viết

Kinh Nghiệm về Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc Mới Nhất

Update: 2022-03-28 02:18:15,Bạn Cần kiến thức và kỹ năng về Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc. You trọn vẹn có thể lại Báo lỗi ở cuối bài để Mình đc lý giải rõ ràng hơn.

658

Đỗ Cảnh Thạc là danh tướng từng góp sức giúp Ngô Quyền bình định thiên hạ, đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.

Tóm lược đại ý quan trọng trong bài

  • Cánh tay đắc lực của Ngô Quyền
  • Sứ quân nổi danh thiên hạ
  • Giá trị lịch sử dân tộc bản địa
  • Sứ quân Phạm Bạch Hổ – danh tướng nhiều lần vượt mặt quân Nam Hán, phụng sự 3 nhà Dương, Ngô, Đinh

Theo Thần phả độc nhĩ đại vương, Đỗ Cảnh Thạc (912-967), quê ở huyện Thanh Oai, Tp Hà Nội Thủ Đô ngày này. Ông được nghe biết với biệt danh “Độc nhĩ đại vương” – tướng quân một tai.

Sau khi nhà Ngô sụp đổ, Đỗ Cảnh Thạc kéo quân về Đỗ Động Giang vùng Thanh Oai. Tại đây, ông cho đắp thành, mở mang lãnh thổ, quản trị và vận hành vùng đất to lớn. Ông có nhiều góp phần trên những nghành, được nhân dân kính trọng, lập đền thờ nhiều nơi, phong làm thành hoàng.

Cánh tay đắc lực của Ngô Quyền

Theo những tài liệu lịch sử dân tộc bản địa ghi lại, từ nhỏ, Đỗ cảnh Thạc là cậu bé thông minh, mạnh khỏe, 12 tuổi đã biết cưỡi ngựa, bắn cung, theo cha đi săn muông thú. Thấy người Nam Hán ức hiếp dân lành quê nhà, giết người, cướp của, ông rất là căm hận.

Một hôm, nhà bị giặc xông vào bắt heo, bất bình, ông xông ra đòi lại, nhưng bị đánh đập. Ức chế, ông lấy chiếc đòn khiêng heo đánh túi bụi. Nhưng vì yếu thế, ông bị chúng quây bắt trói lên cây, xẻo mất một tai.

Đình Ngô Sài (Quốc Oai, Tp Hà Nội Thủ Đô) thờ tướng quân Đỗ Cảnh Thạc. Ảnh: Khoa học và Đời sống.

Căm thù kẻ địch, ông quyết tìm thầy học võ trong ba năm. Giai đoạn đầu của đời sống binh nghiệp, Đỗ Cảnh Thạc là tướng của Dương Đình Nghệ. Sau đó, vì mến phục tài năng của Ngô Quyền, ông đem quân về dưới trướng Ngô Vương vào năm 937.

Đỗ Cảnh Thạc dần trở thành cánh tay đắc lực, giúp nhà Ngô lập nền tự chủ, dựng xây triều đại mới. Một trong những góp phần lớn số 1 của “Độc nhĩ tướng quân” Đỗ Cảnh Thạc là cùng Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, bảo vệ vững chãi nền độc lập non trẻ mà dân tộc bản địa ta vừa giành lại được sau hơn 1.000 năm Bắc thuộc vào năm 938.

Sau khi vượt mặt quân xâm lược, Ngô Quyền xưng Vương, Đỗ Cảnh Thạc được phong làm thái úy đứng đầu võ quan triều đình.

Sứ quân nổi danh thiên hạ

Trước khi qua đời, Ngô Quyền đã chỉ định Thái tử Ngô Xương Ngập nối ngôi, nhờ em vợ Dương Tam Kha phò giúp. Nhưng tận dụng tin tưởng anh rể, Dương Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, tự xưng là Bình Vương.

Trước dịch chuyển ở triều đình, hai bạn hữu Xương Văn và Xương Ngập chạy về Thành Phố Hải Dương lánh nạn, sẵn sàng lực lượng chống lại Dương Tam Kha. Dương Tam Kha sai Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc ba lần đem quân đi lùng bắt Ngô Xương Ngập.

Tuy nhiên, là người từng “vào sinh ra tử” với Ngô Quyền, Đỗ Cảnh Thạc không nỡ hãm hại con ông. “Độc nhĩ tướng quân” đã hỗ trợ Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn giành lại quyền lực tối cao vốn thuộc về mái ấm gia đình mình.

Sau Dương Tam Kha bị lật đổ, Đỗ Cảnh Thạc tiếp tục phò trợ hai con trai của vua Ngô Quyền. Đến năm 965, Ngô Xương Văn tử trận, nhà Hậu Ngô sụp đổ. Các sứ quân tranh hùng, tạo ra thời kỳ tranh giành của 12 sứ quân.

Trong toàn cảnh hoảng loạn đó, Đỗ Cảnh Thạc với thanh thế của tớ, đã sở hữu giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai), tự xưng là Đỗ Cảnh Công, hùng cứ một phương.

Sứ quân Đỗ Cảnh Thạc là tập đoàn lớn lớn quân sự chiến lược, có thành cao hào sâu bảo phủ. Trên hành trình dài dẹp 12 sứ quân thống nhất thiên hạ, Đinh Bộ Lĩnh bàn mưu tính kế rất thận trọng mới vượt mặt ông.

Trong một lần Đỗ Cảnh Thạc thân chinh cầm quân ở Bảo Đà, vào đêm hôm, Đinh Bộ Lĩnh cho quân vây hãm bốn mặt thành và tiến đánh bất thần vào Trại Quèn. Vì ở xa, quân tướng của Đỗ Cảnh Thạc không ứng cứu được nhau, bị mất cả thành lũy, đồn trại, lương thực nên phải bỏ thành chạy. Hai bên giao tranh hơn một năm tiếp theo, Đinh Bộ Lĩnh hạ được thành.

Đỗ Cảnh Thạc tháo chạy và bị trúng tên chết ở chân núi Sài Sơn năm 967. Sau khi vượt mặt Đỗ Cảnh Thạc, Đinh Bộ Lĩnh thống nhất giang sơn, lập lên nhà Đinh, dựng nước Đại Cồ Việt, mở đầu cho một triều đại mới.

Trong sự nghiệp của tớ, Đỗ Cảnh Thạc đã cùng với Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, góp thêm phần xây dựng, củng cố cơ quan ban ngành quân chủ độc lập, tự chủ sau hơn 1000 năm Bắc thuộc, duy trì trật tự kỷ cương xã hội, tạo Đk cho nhân dân vùng Thanh Oai, Quốc Oai (Tp Hà Nội Thủ Đô ngày này) được sống yên bình trong lúc cơ quan ban ngành TW của nhà Ngô đã sụp đổ.

Ngô Quyền diệt trừ quân phản loạn Ngô Quyền tập hợp lực lượng, đưa quân từ Ái Châu ra Đại La để diệt trừ tên phản tặc Kiều Công Tiễn.

Đánh giá về Đỗ Cảnh Thạc, Phùng Khắc Khoan từng tán tụng rằng: “Tướng công phò suốt ba đời nhà Ngô, trải bao biến cố vẫn giữ một lòng trung hiếu, không màng danh lợi, góp sức cả đời sống cho dân, cho nước. Thật là một tấm gương trung hiếu chói lọi cho đời sau noi theo”.

Hiện nay, nhiều vùng đất ở Thanh Oai, Quốc Oai (Tp Hà Nội Thủ Đô) vẫn còn đấy đền thờ tướng quân Đỗ Cảnh Thạc. Đình Cổ Hiền ở xã Tuyết Nghĩa, Quốc Oai, nằm ở vị trí gần sông Tích, sẽ là vị trí TT thành Quèn xưa của Đỗ Tướng Công, là nơi thờ thành hoàng làng “Độc nhĩ đại vương” Đỗ Cảnh Thạc.

Giá trị lịch sử dân tộc bản địa

Sứ quân Phạm Bạch Hổ – danh tướng nhiều lần vượt mặt quân Nam Hán, phụng sự 3 nhà Dương, Ngô, Đinh

Sứ quân Phạm Bạch Hổ – danh tướng nhiều lần vượt mặt quân Nam Hán, phụng sự 3 nhà Dương, Ngô, Đinh
Sứ quân Phạm Bạch Hổ (chữ Hán: 范白虎; 910 – 972), xưng hiệu Phạm Phòng Át (范防遏), là võ tướng những triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời nhà Ngô trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam.

Ông là người gốc Nam Sách, Thành Phố Hải Dương nhưng sinh ra và lớn
lên ở Đằng Châu, Hưng Yên. Ngày nay, ông được thờ phụng ở nhiều nơi thuộc vùng châu
thổ sông Hồng.

Sứ quân Phạm Bạch Hổ từng tham gia trận Bạch Đằng, 938 chống
quân Nam Hán. Ngô Quyền mất, ông chiếm giữ đất Đằng Châu và trở thành một tướng
trong loạn 12 sứ quân (966 – 968). Sau theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp những sứ quân
khác.

Thế lực họ Phạm

Theo Đại Nam nhất thống chí, Sứ quân Phạm Bạch Hổ sinh ngày
10 tháng một năm Canh Ngọ (tức 21 tháng hai năm 910), cha là Phạm Lệnh Công người lộ
Nam Sách Giang (nay là Nam Sách- Thành Phố Hải Dương) là một công thần dưới triều Ngô
vương. Lệnh Công có quán buôn ở Đằng Châu, tại đây ông có vợ và
sinh ra Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ
trắng mà có mang nên được đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ,
mạnh mẽ và tự tin như hổ, thông minh hơn người, văn võ tuy nhiên toàn.

Sinh thành từ giấc mơ hổ trắng

Trang Ngọc Đường, phủ Khoái Châu có một hiền nữ, tên thường gọi Doanh
Nương. Nàng sinh trưởng từ một mái ấm gia đình đã bao đời tu nhân tích đức. Sắc đẹp tựa
ngọc, mặt hoa da phấn của nàng như người ở cung nga. Doanh Nương thường hay du
ngoạn khắp chốn Đông – Đoài.

Năm 24 tuổi, sau khoản thời hạn lấy Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang, bà
nhẹ gót hồng qua đất Đằng Châu, phủ Kim Động, trời đất bỗng nổi cơn phong ba
bão táp, sấm chớp giật liên hồi. Doanh Nương sợ hãi chạy vào một trong những ngôi miếu cổ thờ
Sơn Thần trú chân. Bỗng từ thượng điện, một con hổ trắng to lớn nhảy xuống phủ
kín người, nàng bàng hoàng ngất lịm.

Tỉnh dậy, thấy người nhẹ nhõm, bước tiến về nhà như có gió đẩy,
mây đưa. Sau đó, Doanh Nương có thai rồi sinh một người con trai khôi ngôi, tuấn
tú đặt tên là Phạm Bạch Hổ, tự là Phạm Phòng Át.

Phạm Bạch Hổ thông minh khác lạ. Mới bảy tuổi đã thông thuộc
văn chương. Năm mười sáu tuổi văn, võ tuy nhiên toàn, tài cao trí lớn. Đến năm mười
tám tuổi, chàng thoả chí vẫy vùng thì người mẹ lâm bệnh quy tiên.

Ông sinh trong một dòng họ giàu truyền thống cuội nguồn võ nghệ, đời đời
làm hào trưởng vùng Trà Hương. Ông nội là Phạm Chí Dũng vốn là Hồng châu tướng
quân. Anh trai ông Phạm Man là Tham chính đô đốc đời Nam Tấn vương Ngô Xương
Văn. Các cháu ông như Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng đều là những tướng
giỏi thời Đinh được người đời sau ca tụng là “Giao Châu thất hùng”.
Con gái ông, Phạm Thị Ngọc Dung là vợ của Ngô Xương Ngập và sinh ra Ngô Xương
Xí, sau trở thành Sứ quân thứ nhất trong 12 sứ quân.

Sự nghiệp

Đánh bại quân Nam Hán

Sứ quân Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, theo
giúp Dương Đình Nghệ.

Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử
Giao Châu của nước Nam Hán và tiếp sau đó vượt mặt Trần Bảo do Lưu Nghiễm cử sang cứu
viện. Dương Đình Nghệ xưng tiết độ sứ, dùng ông làm nha tướng.

Phò Ngô

Khi Kiều Công Tiễn giết chết chủ tướng Dương Đình Nghệ, đoạt
chức rồi cầu cứu quân Nam Hán sang xâm lược. Sứ quân Phạm Bạch Hổ đã phối thích phù hợp với
Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Nhà Ngô phong ông chức Phòng Át tướng công, trấn giữ toàn
cõi Hải Đông (khu vực nam Hưng Yên, Thành Phố Hải Dương, Hải Phòng Đất Cảng, Quảng Ninh ngày này).

Khi Ngô Quyền mất (944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của Ngô
Xương Ngập. Vùng núi Hun Sơn của cha con ông là nơi che chở cho Ngô Xương Ngập
gấp đôi trốn thoát khỏi truy lùng của mình Dương. Sau khi Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát
Lợi giúp Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, Sứ quân Phạm Bạch Hổ tham gia giúp
Hậu Ngô Vương.

Sứ quân trấn Hải Đông

Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, những hào kiệt trong nước nổi lên
cát cứ từng vùng. Sứ quân Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu[4] và là một trong
mười hai sứ quân thời đó. Những dấu tích ở Côn Sơn, Đông Triều đã cho toàn bộ chúng ta biết khu vực chiếm
đóng của Sứ quân Phạm Bạch Hổ còn lan ra cả vùng hướng đông bắc, tức khu vực Hải
Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng Đất Cảng ngày này và khu vực núi Hun Sơn nơi mà Phạm Lệnh
Công cha ông từng giấu Ngô Xương Ngập cũng là một địa thế căn cứ quân sự chiến lược của ông, từng
trình làng nhiều trận đánh với tướng Nguyễn Bặc của Đinh Bộ Lĩnh. Tên núi Hun Sơn gắn với việc kiện tướng quân Hoa Lư là Nguyễn
Bặc, dùng kế hỏa công, tận dụng gió thổi đốt lửa hun khói vào doanh trại của Sứ
quân Phạm Bạch Hổ.

Ngoài việc chiếm đóng Hải Đông, Phạm Phòng Át còn mở rộng
lãnh địa bằng những cuộc tiến công về phía nam thuộc lãnh địa Kỳ Bố Hải Khẩu của sứ
quân Trần Lãm và về phía bên kia sông Hồng tại những vùng Hà Nam, Tỉnh Nam Định ngày
nay. Thần tích làng Ngâu Khê và miếu Lộc Thọ ở Thái Bình cho biết thêm thêm
những tướng Phạm Công Thanh, Phạm Công Hoài, Phạm Công Đinh, Phạm Thành là những
người cũng Đinh Bộ Lĩnh theo về với sứ quân Trần Lãm và trực tiếp tham gia chiến
tranh với sứ quân Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Qua khảo sát thực địa tại cánh đồng Nội Phủ ở Thái Bình, nơi
Trần Lãm cho Đinh Bộ Lĩnh cùng những tướng đắp thành, đất để ngăn ngừa sứ quân Phạm
Phòng Át và Lã Đường từ Hưng Yên sang đánh hiện còn sót lại phế tích của bức tường
thành bằng đất (dân ở đây quen gọi là đường đất dài – vì tường thành cũ rất
dài) có hình chữ nhật, chiều dài khoảng chừng 700 – 800m, rộng khoảng chừng 500 – 600m. Theo thần phả, thần tích những làng thờ Lê Hoàn ở làng Đô Kỳ
(Đông Đô), làng Bái (xã Minh Tân) cũng ở Thái Bình thì Lê Hoàn đã từng đánh
nhau với quân của Sứ quân Phạm Bạch Hổ tại vùng đất nói trên.

Thần tích đình Mai Động ở Hà Nam cho biết thêm thêm hai bạn hữu Phạm
Hán và Phạm Phổ gặp thời loạn 12 sứ quân, bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu
mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu và đánh nhau với sứ quân Phạm
Phòng Át và Ngô Nam vài chục trận; hai ông giữ phần thắng.

Căn cứ vào tư liệu còn lưu giữ tại chùa Đô Quan (Yên Khang,
Ý Yên, Tỉnh Nam Định) cùng truyền thuyết ở địa phương thì từ thế kỷ thứ 10, sứ quân
Phạm Phòng Át về đây lập nên phường Quán Đổ.

Thần phả làng Nhuệ Khê, thần tích đình Cát Đằng và Phủ Bà ở
Tỉnh Nam Định đều cho biết thêm thêm những tướng Đinh Đức Đạt, Đinh Đức Thông, Hoàng Thị Đậu,
Nguyễn Đức Long là những người dân theo Đinh Bộ Lĩnh và trực tiếp tham gia chiến
tranh với sứ quân Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Hàng phục nhà Đinh

Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền,
mang quân đánh dẹp Loạn 12 sứ quân. Đầu năm 966, sau tối thiểu 3 lần giao tranh tại
Thành Phố Hải Dương, Thái Bình và Tỉnh Nam Định, Sứ quân Phạm Bạch Hổ đã mang quân về Hoa Lư
theo hàng Đinh Bộ Lĩnh, được phong là thân vệ Đại tướng quân. So với 2 tướng cũ nhà Ngô khác là Kiều Công Hãn và Đỗ Cảnh
Thạc vẫn nhất quyết chống cự trong cả khi những hậu duệ nhà Ngô đã thu phục và về
với nhà Đinh, trọn vẹn có thể Sứ quân Phạm Bạch Hổ là người ít có tham vọng bá vương hơn
nhưng có con mắt tinh đời, biết nhìn nhận thời thế nên thoát khỏi cảnh binh
đao, chết chóc.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, lập ra nhà
nước Đại Cồ Việt, lên ngôi ở kinh đô Hoa Lư, tức là Vua Đinh Tiên Hoàng. Sứ
quân Phạm Bạch Hổ trở thành tướng nhà Đinh, được vua Ðinh phong chức Thân vệ Đại
tướng quân.

Ngày 16 tháng 11 năm Nhâm Thân (tức 24 tháng 12 năm 972), Sứ
quân Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân
dân lập đền thờ, những triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc
tối linh thần”. Tuy nhiên một số trong những nguồn tin khác cho biết thêm thêm ông còn tham gia
đánh giặc Tống trên sông Bạch Đằng lần thứ hai và sống đến tận khi Lê Hoàn lên
ngôi nhà vua thay nhà Đinh, tức năm 983, thọ 73 tuổi.

Tôn vinh và thờ phụng

Sứ quân Phạm Bạch Hổ được nhân dân nhiều nơi như: Hưng Yên,
Tp Hà Nội Thủ Đô, Thành Phố Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình,… tôn thờ. Hầu hết những nơi thờ này
thuộc khu vực đạo Hải Đông xưa, tức vùng Đông Bắc Việt Nam ngày này vốn gắn bó
nhiều với đời sống và sự nghiệp của ông.

Có thể coi đền chính thờ Phạm Phòng Át là di tích lịch sử đền Mây
thuộc thôn Đằng Châu, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Nhắc đến
Hưng Yên, không thể không kể tới đền Mây, bởi từ lâu ngôi đền này đã nổi tiếng
với câu ca: “Trăm cảnh nghìn cảnh, không bằng bến Lảnh, đò Mây”. Trong đền có bức đại tự ghi: “Thái Bình Vương phủ”, nhân dân
coi Sứ quân Phạm Bạch Hổ là vị vua của xứ Thái Bình xưa. Đền Mây được xây dựng
vào thời Đinh – Tiền Lê và được trùng tu vào thời Nguyễn.

Đền Mây là ngôi đền có nhiều giá trị văn hóa truyền thống rực rỡ còn lưu
giữ đến tận ngày này với 27 pho tượng cổ mang phong thái thời Hậu Lê được thờ
trong đền. Lễ hội đền Mây là một trong những liên hoan quy tụ nhiều nét văn hóa truyền thống
truyền thống cuội nguồn của người dân Hưng Yên. Hàng năm, đền Mây thường tổ chức triển khai liên hoan
vào ba dịp là: Từ 8 – 16 tháng Giêng, từ 12 – 18 tháng 11 và từ 16 – 24 tháng 6
âm lịch.

Tại Hưng Yên, ông còn được thờ ở cả 2 di tích lịch sử khác là đình Xích
Đằng, phường Nam Sơn và đền Hàng Cá, phường Minh Khai đều thuộc thành phố Hưng
Yên.

Có một đền Vua Mây khác thuộc thôn Đại Đê, xã Đại An, Vụ Bản,
Tỉnh Nam Định cũng là nơi thờ danh tướng Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Ông cũng rất được thờ ở
đình, chùa những làng thuộc xã Đại Thắng, Vụ Bản.

Tại thung Thắm thuộc quần thể danh thắng Tràng An (Ninh
Bình) còn nhiều dấu tích tương quan đến góp sức của ông so với triều đại nhà
Đinh.

Sứ quân Phạm Bạch Hổ cũng rất được tôn thờ là Thành hoàng làng
Phương Mạc – Phương Đình, Đan Phượng, Tp Hà Nội Thủ Đô và đình Thanh Mạc, xã Thanh Đa,
Phúc Thọ, Tp Hà Nội Thủ Đô .

Phạm Phòng Át cũng rất được thờ ở làng Đông Hải, xã Đông Vinh,
Đông Hưng, Thái Bình (xưa đấy là làng Văn Ông, tổng Đồng Hải, huyện Thanh
Quan).

Ở thành phố Hưng Yên, có một con phố trục chính mang tên
đường Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Ðền Mây còn gọi là đền Đằng Châu là một di tích lịch sử vương quốc thuộc
quần thể di tích lịch sử Phố Hiến đã được xếp hạng di tích lịch sử vương quốc đặc biệt quan trọng. Đền nằm
bên sông Hồng, cạnh bến đò Mây xưa thuộc xã Ðằng Châu, nay là phường Lam Sơn,
thành phố Hưng Yên, nơi đã được dân gian ca tụng “Trăm cảnh nghìn cảnh
không bằng Bến Lảnh, Ðò Mây”. Ðền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích lịch sử nổi
tiếng vì còn lưu giữ được phong thái kiến trúc thuần Việt. Đền Mây là nơi thờ
tướng quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân (tức danh tướng Phạm Phòng Át), một vị
tướng để lại nhiều dấu ấn qua những thời kì: nhà Ngô, loạn 12 sứ quân và nhà
Đinh.

Đằng Châu

Địa danh Đằng Châu có từ thời Bắc Thuộc. Năm 1005, Nhà Tiền
Lê đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Vùng đất thuộc tỉnh Hưng Yên ngày này.

Đằng Châu vốn là một địa thế căn cứ quân sự chiến lược, nơi đóng quân của tướng
Sứ quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân

Hiện nay chỉ từ địa điểm làng Đằng Châu, phường Lam Sơn,
thành phố Hưng Yên.

Các ghi chép để lại đều nhận định rằng đền Mây được xây dựng từ thời
nhà Đinh. Tương truyền đền thần rất rất linh. Cuốn “Việt điện u linh” khi nói
đến thần thổ địa ở Đằng Châu – Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Long Đĩnh khi chưa
lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền đi dạo. Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió
thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông
có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đấy là đền thờ
thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đấy là nơi dựa của một
châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh thường rất ứng”. Vương bèn nói to lên rằng: “Nếu thần khiến được mưa gió
thì nay thử làm cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là
thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên
này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không trở thành ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.

Thời vua Lý Thái Tông đi đánh giặc Chiêm Thành lần thứ hai,
qua đền Đằng Châu mới dừng nghỉ ngơi và cho những người dân sắm sửa lễ vật mang vào cầu
thần phù giúp thắng trận. Đêm đó, thần báo mộng cho vua hãy tiến quân.

Tuy nhiên, lúc đó quân nhà Lý dùng thuyền xuôi phương Nam
nhưng gặp gió thổi ngược. Thần liền hóa thành con chim đậu trên cột buồm. Trời
đang gió Nam chuyển thành gió Bắc. Đại quân con thuyền thuận gió nên tiến rất
nhanh đến cửa Tư Dung. Khi đó, quân Chiêm Thành đã bày trận sẵn sàng giáp chiến.

Tình thế bất lợi cho quân nhà Lý vì phải có thời hạn lên bờ.
Bỗng trên mặt nước xuất hiện từng đàn cá nổi lên lên tạo thành con phố cho quân
lính đổ xô. Quân Chiêm xông đến, còn chưa kịp giao tranh thì một cơn giông nổi lên,
cát bụi cuốn vào trận địa. Quân Chiêm hoảng hồn, rối loạn, quân Lý nhân thế phá
trận vượt mặt quân Chiêm Thành. Sau vua Lý Thái Tông đã cho ghi vào điển tích
chuyện vua Mây và ban tám chữ: “Điểu tích truyền binh/Ngư đầu hộ độ”.

Trải qua thời hạn, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần.
Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật và thẩm mỹ chạm khắc thời Hậu
Lê và thời Nguyễn.

Kiến trúc ngôi đền

Đền Mây được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và
hậu cung. Văn bia ở đền cho biết thêm thêm: Ðền được xây dựng vào thời nhà Ðinh, tu sửa
vào thời Lê. Ðến Thiệu Trị năm thứ 4 (1884) nhân dân dựa theo quy mô cũ mà sửa
lại… Ðến năm 1898 dân đồng tâm hiệp lực tu bổ lại ngôi đền, ngày xuân năm tiếp theo
hoàn thành xong. Ngôi đền rất linh nổi tiếng xứ Sơn Nam, chiến tích xa rồi nhưng
sự linh ứng và tiếng thơm vẫn lưu truyền mãi.

Nghi môn đền Mây, Phố Hiến, Hưng yên

Chính điện đền Mây

Ban thờ bên trong Chính điện đền Mây

Hậu cung đền Mây thờ 3 pho tượng: Phạm Bạch Hổ (bên phải), Phu nhân (bên trái) và Thánh mẫu (ở giữa) Cung đại bái Đền Mây với khối mạng lưới hệ thống câu đối và bức Trâm thư của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh Ảnh: Đức Hùng

Bia và bảng ghi công đức của sứ quân, danh tướng Phạm Bạch Hổ Cây đa cổ thụ ở đền Mây

Bia xác nhận cây đa cổ thụ ở đền Mây

Tiền tế

Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái
lợp ngói mũi. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ
“Thái Bình vương Phủ”. Dân gian coi Vua Mây là Vua của khu vực Thái Bình xưa.
Các gian bên treo những bức hoành phi có ghi: “Phúc dẫn Đằng lưu” (Sông Đằng dẫn
phúc); “Anh phi Châu quận” (Bậc anh tài ở quận Châu) và “Bán giang lĩnh
tích” (Nửa dòng sông còn in dấu tích).

Nhà tiền tế còn bức chạm khảm trai lưu bút tích của Tiến sĩ
Chu Mạnh Trinh, làm án sát xứ Hưng Yên, viết năm Mậu Tuất (1898) (dịch nghĩa): “Ngoảnh đầu
nhìn lại, nghìn năm giang sơn đã thay đổi nhiều. Sự ngưỡng vọng tế
lễ còn ở bảy mươi đền miếu.”

Trung từ

Trung từ là nơi thờ 4 vị quan văn võ của vua Mây – sứ quân
Phạm Bạch Hổ. Trung từ gồm 5 gian, nằm nối với tiền tế nhưng nền nhà cao hơn nữa.
Trung từ có kết cấu kiểu vì giá chiêng, với khối mạng lưới hệ thống cột gỗ lim vững chãi kê
trên chân tảng đá lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái. Hai bên cột treo đôi câu đối
ca tụng công lao của tướng quân. “Bá chủ hùng
đồ thập nhị sơn hà dư cổ luỹ Thần cao linh khí
bán phân tinh vũ thử tiền giang”.

Tạm dịch: “Anh hùng bá
chủ một vùng, non nước phân loại 12 sứ quân Linh thiêng hiển
hiện của thần, khúc sông này nửa phân mưa nắng”.

Hậu cung

Hậu cung đền Mây gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn thuần và giản dị,
không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo
tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý.

Hậu cung đền Mây có tượng tướng quân Phạm Phòng Át, thân mẫu
và phu nhân tướng quân và con trai ông với vai trò là hoàng tử. Các tượng được
tạc rất sống động. Thời 12 sứ quân, Sứ quân Phạm Bạch Hổ được định hình và nhận định như vị Vua
quản trị và vận hành vùng xứ Đông to lớn gồm cả Thành Phố Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng Đất Cảng ngày này. Tượng ông được tạc với tư thế oai phong, gian trung từ có tượng
bốn vị văn võ đã cùng Phạm Phòng Át khai thác, xây dựng cơ nghiệp, kích thước bằng
người thật, thể hiện sự tăng trưởng đến đỉnh điểm của nghệ thuật và thẩm mỹ điêu khắc thế kỷ
XVIII qua bàn tay vàng của nghệ nhân dân gian.

Đền Mây còn lưu giữ những bức đại tự, khảm trai, kiệu bát cống,
bia đá và 23 truyền thống phong của những vua triều Lê – Nguyễn. Trong sáu tấm bia đá,
giá trị nhất là bia khắc bài “Ðặng Châu từ phụng ký” của Tuần phủ
Hưng Yên Phạm Văn Toán làm năm thứ 11 (1899) triều vua Thành Thái, đã từng cùng
Thống chế Hoàng Kế Viêm đánh Pháp ở trận Cg cầu giấy, giết tướng giặc F.Garnie
(1873), được triều đình trọng dụng, phong chức Trung phụng đại phu Tham tri Bộ
binh, Phó đô ngự sử Viện Ðô sát. Nhân dịp Ðền Mây được trùng tu, ông đã dâng
bài văn bia ca tụng công đức của Phạm Phòng Át.

Lễ hội đền Mây

Lễ hội đền Mây được tổ chức triển khai thường niên ở hai thời gian khác
nhau: Tháng Giêng từ thời gian ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là liên hoan kỷ niệm ngày
sinh; từ thời gian ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là liên hoan kỷ niệm ngày hoá của
tướng quân Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Ngoài ra, Từ 16 đến 24 tháng Sáu là ngày kỵ
thân mẫu Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Trong liên hoan ngoài tế lễ còn trình làng phần hội với nhiều trò
chơi truyền thống cuội nguồn mang đậm nét văn hoá của dân cư Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân,
hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ…

Ngày nay, liên hoan được tổ chức triển khai đơn thuần và giản dị hơn theo phong thái mới.
Năm 1992, Bộ VHTT đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử lịch sử dân tộc bản địa và kiến trúc nghệ thuật và thẩm mỹ.
Để hoà nhập với việc tăng trưởng của Phố Hiến – Hưng Yên, Đền Mây được quy hoạch,
trùng tu, tôn tạo để bảo vệ bảo vệ an toàn phục vụ khách thập phương và nhân dân trong vùng
trong những ngày liên hoan.
Nguồn: InterNet
Ths Nguyễn Thy Ngà

Sứ quân Phạm Bạch Hổ (chữ Hán: 范白虎; 910 – 972), xưng hiệu Phạm Phòng Át (范防遏), là võ tướng những triều nhà Ngô, nhà Đinh và là một sứ quân trong loạn 12 sứ quân cuối thời nhà Ngô trong lịch sử dân tộc bản địa Việt Nam.

Ông là người gốc Nam Sách, Thành Phố Hải Dương nhưng sinh ra và lớn
lên ở Đằng Châu, Hưng Yên. Ngày nay, ông được thờ phụng ở nhiều nơi thuộc vùng châu
thổ sông Hồng.

Sứ quân Phạm Bạch Hổ từng tham gia trận Bạch Đằng, 938 chống
quân Nam Hán. Ngô Quyền mất, ông chiếm giữ đất Đằng Châu và trở thành một tướng
trong loạn 12 sứ quân (966 – 968). Sau theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp những sứ quân
khác.

Thế lực họ Phạm

Theo Đại Nam nhất thống chí, Sứ quân Phạm Bạch Hổ sinh ngày
10 tháng một năm Canh Ngọ (tức 21 tháng hai năm 910), cha là Phạm Lệnh Công người lộ
Nam Sách Giang (nay là Nam Sách- Thành Phố Hải Dương) là một công thần dưới triều Ngô
vương.

Lệnh Công có quán buôn ở Đằng Châu, tại đây ông có vợ và
sinh ra Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ
trắng mà có mang nên được đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ,
mạnh mẽ và tự tin như hổ, thông minh hơn người, văn võ tuy nhiên toàn.

Sinh thành từ giấc mơ hổ trắng

Trang Ngọc Đường, phủ Khoái Châu có một hiền nữ, tên thường gọi Doanh
Nương. Nàng sinh trưởng từ một mái ấm gia đình đã bao đời tu nhân tích đức. Sắc đẹp tựa
ngọc, mặt hoa da phấn của nàng như người ở cung nga. Doanh Nương thường hay du
ngoạn khắp chốn Đông – Đoài.

Năm 24 tuổi, sau khoản thời hạn lấy Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang, bà
nhẹ gót hồng qua đất Đằng Châu, phủ Kim Động, trời đất bỗng nổi cơn phong ba
bão táp, sấm chớp giật liên hồi. Doanh Nương sợ hãi chạy vào một trong những ngôi miếu cổ thờ
Sơn Thần trú chân. Bỗng từ thượng điện, một con hổ trắng to lớn nhảy xuống phủ
kín người, nàng bàng hoàng ngất lịm.

Tỉnh dậy, thấy người nhẹ nhõm, bước tiến về nhà như có gió đẩy,
mây đưa. Sau đó, Doanh Nương có thai rồi sinh một người con trai khôi ngôi, tuấn
tú đặt tên là Phạm Bạch Hổ, tự là Phạm Phòng Át.

Phạm Bạch Hổ thông minh khác lạ. Mới bảy tuổi đã thông thuộc
văn chương. Năm mười sáu tuổi văn, võ tuy nhiên toàn, tài cao trí lớn. Đến năm mười
tám tuổi, chàng thoả chí vẫy vùng thì người mẹ lâm bệnh quy tiên.

Ông sinh trong một dòng họ giàu truyền thống cuội nguồn võ nghệ, đời đời
làm hào trưởng vùng Trà Hương. Ông nội là Phạm Chí Dũng vốn là Hồng châu tướng
quân. Anh trai ông Phạm Man là Tham chính đô đốc đời Nam Tấn vương Ngô Xương
Văn.

Các cháu ông như Phạm Hạp và Phạm Cự Lạng đều là những tướng
giỏi thời Đinh được người đời sau ca tụng là “Giao Châu thất hùng”.
Con gái ông, Phạm Thị Ngọc Dung là vợ của Ngô Xương Ngập và sinh ra Ngô Xương
Xí, sau trở thành Sứ quân thứ nhất trong 12 sứ quân.

Sự nghiệp

Đánh bại quân Nam Hán

Sứ quân Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, theo
giúp Dương Đình Nghệ.

Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử
Giao Châu của nước Nam Hán và tiếp sau đó vượt mặt Trần Bảo do Lưu Nghiễm cử sang cứu
viện. Dương Đình Nghệ xưng tiết độ sứ, dùng ông làm nha tướng.

Phò Ngô

Khi Kiều Công Tiễn giết chết chủ tướng Dương Đình Nghệ, đoạt
chức rồi cầu cứu quân Nam Hán sang xâm lược. Sứ quân Phạm Bạch Hổ đã phối thích phù hợp với
Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938).

Nhà Ngô phong ông chức Phòng Át tướng công, trấn giữ toàn
cõi Hải Đông (khu vực nam Hưng Yên, Thành Phố Hải Dương, Hải Phòng Đất Cảng, Quảng Ninh ngày này).

Khi Ngô Quyền mất (944), Dương Tam Kha cướp ngôi vua của Ngô
Xương Ngập. Vùng núi Hun Sơn của cha con ông là nơi che chở cho Ngô Xương Ngập
gấp đôi trốn thoát khỏi truy lùng của mình Dương. Sau khi Đỗ Cảnh Thạc và Dương Cát
Lợi giúp Ngô Xương Văn lật đổ Dương Tam Kha, Sứ quân Phạm Bạch Hổ tham gia giúp
Hậu Ngô Vương.

Sứ quân trấn Hải Đông

Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, những hào kiệt trong nước nổi lên
cát cứ từng vùng. Sứ quân Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu[4] và là một trong
mười hai sứ quân thời đó.

Những dấu tích ở Côn Sơn, Đông Triều đã cho toàn bộ chúng ta biết khu vực chiếm
đóng của Sứ quân Phạm Bạch Hổ còn lan ra cả vùng hướng đông bắc, tức khu vực Hải
Dương, Quảng Ninh, Hải Phòng Đất Cảng ngày này và khu vực núi Hun Sơn nơi mà Phạm Lệnh
Công cha ông từng giấu Ngô Xương Ngập cũng là một địa thế căn cứ quân sự chiến lược của ông, từng
trình làng nhiều trận đánh với tướng Nguyễn Bặc của Đinh Bộ Lĩnh.

Tên núi Hun Sơn gắn với việc kiện tướng quân Hoa Lư là Nguyễn
Bặc, dùng kế hỏa công, tận dụng gió thổi đốt lửa hun khói vào doanh trại của Sứ
quân Phạm Bạch Hổ.

Ngoài việc chiếm đóng Hải Đông, Phạm Phòng Át còn mở rộng
lãnh địa bằng những cuộc tiến công về phía nam thuộc lãnh địa Kỳ Bố Hải Khẩu của sứ
quân Trần Lãm và về phía bên kia sông Hồng tại những vùng Hà Nam, Tỉnh Nam Định ngày
nay.

Thần tích làng Ngâu Khê và miếu Lộc Thọ ở Thái Bình cho biết thêm thêm
những tướng Phạm Công Thanh, Phạm Công Hoài, Phạm Công Đinh, Phạm Thành là những
người cũng Đinh Bộ Lĩnh theo về với sứ quân Trần Lãm và trực tiếp tham gia chiến
tranh với sứ quân Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Qua khảo sát thực địa tại cánh đồng Nội Phủ ở Thái Bình, nơi
Trần Lãm cho Đinh Bộ Lĩnh cùng những tướng đắp thành, đất để ngăn ngừa sứ quân Phạm
Phòng Át và Lã Đường từ Hưng Yên sang đánh hiện còn sót lại phế tích của bức tường
thành bằng đất (dân ở đây quen gọi là đường đất dài – vì tường thành cũ rất
dài) có hình chữ nhật, chiều dài khoảng chừng 700 – 800m, rộng khoảng chừng 500 – 600m.

Theo thần phả, thần tích những làng thờ Lê Hoàn ở làng Đô Kỳ
(Đông Đô), làng Bái (xã Minh Tân) cũng ở Thái Bình thì Lê Hoàn đã từng đánh
nhau với quân của Sứ quân Phạm Bạch Hổ tại vùng đất nói trên.

Thần tích đình Mai Động ở Hà Nam cho biết thêm thêm hai bạn hữu Phạm
Hán và Phạm Phổ gặp thời loạn 12 sứ quân, bèn kết giao hào kiệt bốn phương, chiêu
mộ trai tráng thiết lập đồn lũy trên đất Mai Khu và đánh nhau với sứ quân Phạm
Phòng Át và Ngô Nam vài chục trận; hai ông giữ phần thắng.

Căn cứ vào tư liệu còn lưu giữ tại chùa Đô Quan (Yên Khang,
Ý Yên, Tỉnh Nam Định) cùng truyền thuyết ở địa phương thì từ thế kỷ thứ 10, sứ quân
Phạm Phòng Át về đây lập nên phường Quán Đổ.

Thần phả làng Nhuệ Khê, thần tích đình Cát Đằng và Phủ Bà ở
Tỉnh Nam Định đều cho biết thêm thêm những tướng Đinh Đức Đạt, Đinh Đức Thông, Hoàng Thị Đậu,
Nguyễn Đức Long là những người dân theo Đinh Bộ Lĩnh và trực tiếp tham gia chiến
tranh với sứ quân Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Hàng phục nhà Đinh

Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền,
mang quân đánh dẹp Loạn 12 sứ quân. Đầu năm 966, sau tối thiểu 3 lần giao tranh tại
Thành Phố Hải Dương, Thái Bình và Tỉnh Nam Định, Sứ quân Phạm Bạch Hổ đã mang quân về Hoa Lư
theo hàng Đinh Bộ Lĩnh, được phong là thân vệ Đại tướng quân.

So với 2 tướng cũ nhà Ngô khác là Kiều Công Hãn và Đỗ Cảnh
Thạc vẫn nhất quyết chống cự trong cả khi những hậu duệ nhà Ngô đã thu phục và về
với nhà Đinh, trọn vẹn có thể Sứ quân Phạm Bạch Hổ là người ít có tham vọng bá vương hơn
nhưng có con mắt tinh đời, biết nhìn nhận thời thế nên thoát khỏi cảnh binh
đao, chết chóc.

Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, lập ra nhà
nước Đại Cồ Việt, lên ngôi ở kinh đô Hoa Lư, tức là Vua Đinh Tiên Hoàng. Sứ
quân Phạm Bạch Hổ trở thành tướng nhà Đinh, được vua Ðinh phong chức Thân vệ Đại
tướng quân.

Ngày 16 tháng 11 năm Nhâm Thân (tức 24 tháng 12 năm 972), Sứ
quân Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân
dân lập đền thờ, những triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc
tối linh thần”.

Tuy nhiên một số trong những nguồn tin khác cho biết thêm thêm ông còn tham gia
đánh giặc Tống trên sông Bạch Đằng lần thứ hai và sống đến tận khi Lê Hoàn lên
ngôi nhà vua thay nhà Đinh, tức năm 983, thọ 73 tuổi.

Tôn vinh và thờ phụng

Sứ quân Phạm Bạch Hổ được nhân dân nhiều nơi như: Hưng Yên,
Tp Hà Nội Thủ Đô, Thành Phố Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình,… tôn thờ. Hầu hết những nơi thờ này
thuộc khu vực đạo Hải Đông xưa, tức vùng Đông Bắc Việt Nam ngày này vốn gắn bó
nhiều với đời sống và sự nghiệp của ông.

Có thể coi đền chính thờ Phạm Phòng Át là di tích lịch sử đền Mây
thuộc thôn Đằng Châu, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên. Nhắc đến
Hưng Yên, không thể không kể tới đền Mây, bởi từ lâu ngôi đền này đã nổi tiếng
với câu ca: “Trăm cảnh nghìn cảnh, không bằng bến Lảnh, đò Mây”.

Trong đền có bức đại tự ghi: “Thái Bình Vương phủ”, nhân dân
coi Sứ quân Phạm Bạch Hổ là vị vua của xứ Thái Bình xưa. Đền Mây được xây dựng
vào thời Đinh – Tiền Lê và được trùng tu vào thời Nguyễn.

youtube/watch?v=Va7wlCyVazo

Đền Mây là ngôi đền có nhiều giá trị văn hóa truyền thống rực rỡ còn lưu
giữ đến tận ngày này với 27 pho tượng cổ mang phong thái thời Hậu Lê được thờ
trong đền. Lễ hội đền Mây là một trong những liên hoan quy tụ nhiều nét văn hóa truyền thống
truyền thống cuội nguồn của người dân Hưng Yên. Hàng năm, đền Mây thường tổ chức triển khai liên hoan
vào ba dịp là: Từ 8 – 16 tháng Giêng, từ 12 – 18 tháng 11 và từ 16 – 24 tháng 6
âm lịch.

Tại Hưng Yên, ông còn được thờ ở cả 2 di tích lịch sử khác là đình Xích
Đằng, phường Nam Sơn và đền Hàng Cá, phường Minh Khai đều thuộc thành phố Hưng
Yên.

Có một đền Vua Mây khác thuộc thôn Đại Đê, xã Đại An, Vụ Bản,
Tỉnh Nam Định cũng là nơi thờ danh tướng Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Ông cũng rất được thờ ở
đình, chùa những làng thuộc xã Đại Thắng, Vụ Bản.

Tại thung Thắm thuộc quần thể danh thắng Tràng An (Ninh
Bình) còn nhiều dấu tích tương quan đến góp sức của ông so với triều đại nhà
Đinh.

Sứ quân Phạm Bạch Hổ cũng rất được tôn thờ là Thành hoàng làng
Phương Mạc – Phương Đình, Đan Phượng, Tp Hà Nội Thủ Đô và đình Thanh Mạc, xã Thanh Đa,
Phúc Thọ, Tp Hà Nội Thủ Đô .

Phạm Phòng Át cũng rất được thờ ở làng Đông Hải, xã Đông Vinh,
Đông Hưng, Thái Bình (xưa đấy là làng Văn Ông, tổng Đồng Hải, huyện Thanh
Quan).

Ở thành phố Hưng Yên, có một con phố trục chính mang tên
đường Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Ðền Mây còn gọi là đền Đằng Châu là một di tích lịch sử vương quốc thuộc
quần thể di tích lịch sử Phố Hiến đã được xếp hạng di tích lịch sử vương quốc đặc biệt quan trọng. Đền nằm
bên sông Hồng, cạnh bến đò Mây xưa thuộc xã Ðằng Châu, nay là phường Lam Sơn,
thành phố Hưng Yên, nơi đã được dân gian ca tụng “Trăm cảnh nghìn cảnh
không bằng Bến Lảnh, Ðò Mây”.

Ðền Mây cũng như chùa Chuông ở phố Hiến là hai di tích lịch sử nổi
tiếng vì còn lưu giữ được phong thái kiến trúc thuần Việt. Đền Mây là nơi thờ
tướng quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân (tức danh tướng Phạm Phòng Át), một vị
tướng để lại nhiều dấu ấn qua những thời kì: nhà Ngô, loạn 12 sứ quân và nhà
Đinh.

Đằng Châu

Địa danh Đằng Châu có từ thời Bắc Thuộc. Năm 1005, Nhà Tiền
Lê đổi Đằng Châu thành phủ Thái Bình. Vùng đất thuộc tỉnh Hưng Yên ngày này.

Đằng Châu vốn là một địa thế căn cứ quân sự chiến lược, nơi đóng quân của tướng
Sứ quân Phạm Bạch Hổ thời 12 sứ quân

Hiện nay chỉ từ địa điểm làng Đằng Châu, phường Lam Sơn,
thành phố Hưng Yên.

Các ghi chép để lại đều nhận định rằng đền Mây được xây dựng từ thời
nhà Đinh. Tương truyền đền thần rất rất linh. Cuốn “Việt điện u linh” khi nói
đến thần thổ địa ở Đằng Châu – Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Long Đĩnh khi chưa
lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền đi dạo.

Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió
thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông
có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đấy là đền thờ
thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đấy là nơi dựa của một
châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh thường rất ứng”.

Vương bèn nói to lên rằng: “Nếu thần khiến được mưa gió
thì nay thử làm cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là
thiêng!”.

Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên
này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không trở thành ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.

Thời vua Lý Thái Tông đi đánh giặc Chiêm Thành lần thứ hai,
qua đền Đằng Châu mới dừng nghỉ ngơi và cho những người dân sắm sửa lễ vật mang vào cầu
thần phù giúp thắng trận. Đêm đó, thần báo mộng cho vua hãy tiến quân.

Tuy nhiên, lúc đó quân nhà Lý dùng thuyền xuôi phương Nam
nhưng gặp gió thổi ngược. Thần liền hóa thành con chim đậu trên cột buồm. Trời
đang gió Nam chuyển thành gió Bắc. Đại quân con thuyền thuận gió nên tiến rất
nhanh đến cửa Tư Dung. Khi đó, quân Chiêm Thành đã bày trận sẵn sàng giáp chiến.

Tình thế bất lợi cho quân nhà Lý vì phải có thời hạn lên bờ.
Bỗng trên mặt nước xuất hiện từng đàn cá nổi lên lên tạo thành con phố cho quân
lính đổ xô. Quân Chiêm xông đến, còn chưa kịp giao tranh thì một cơn giông nổi lên,
cát bụi cuốn vào trận địa. Quân Chiêm hoảng hồn, rối loạn, quân Lý nhân thế phá
trận vượt mặt quân Chiêm Thành. Sau vua Lý Thái Tông đã cho ghi vào điển tích
chuyện vua Mây và ban tám chữ: “Điểu tích truyền binh/Ngư đầu hộ độ”.

Trải qua thời hạn, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần.
Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật và thẩm mỹ chạm khắc thời Hậu
Lê và thời Nguyễn.

Kiến trúc ngôi đền

Đền Mây được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và
hậu cung. Văn bia ở đền cho biết thêm thêm: Ðền được xây dựng vào thời nhà Ðinh, tu sửa
vào thời Lê. Ðến Thiệu Trị năm thứ 4 (1884) nhân dân dựa theo quy mô cũ mà sửa
lại… Ðến năm 1898 dân đồng tâm hiệp lực tu bổ lại ngôi đền, ngày xuân năm tiếp theo
hoàn thành xong. Ngôi đền rất linh nổi tiếng xứ Sơn Nam, chiến tích xa rồi nhưng
sự linh ứng và tiếng thơm vẫn lưu truyền mãi.

Nghi môn đền Mây, Phố Hiến, Hưng yên

Chính điện đền Mây

Ban thờ bên trong Chính điện đền Mây

Hậu cung đền Mây thờ 3 pho tượng: Phạm Bạch Hổ (bên phải), Phu nhân (bên trái) và Thánh mẫu (ở giữa)

Cung đại bái Đền Mây với khối mạng lưới hệ thống câu đối và bức Trâm thư của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh Ảnh: Đức Hùng

Bia và bảng ghi công đức của sứ quân, danh tướng Phạm Bạch Hổ

Cây đa cổ thụ ở đền Mây

Bia xác nhận cây đa cổ thụ ở đền Mây

Tiền tế

Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái
lợp ngói mũi. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ
“Thái Bình vương Phủ”. Dân gian coi Vua Mây là Vua của khu vực Thái Bình xưa.
Các gian bên treo những bức hoành phi có ghi: “Phúc dẫn Đằng lưu” (Sông Đằng dẫn
phúc); “Anh phi Châu quận” (Bậc anh tài ở quận Châu) và “Bán giang lĩnh
tích” (Nửa dòng sông còn in dấu tích).

Nhà tiền tế còn bức chạm khảm trai lưu bút tích của Tiến sĩ
Chu Mạnh Trinh, làm án sát xứ Hưng Yên, viết năm Mậu Tuất (1898) (dịch nghĩa):

“Ngoảnh đầu
nhìn lại, nghìn năm giang sơn đã thay đổi nhiều.

Sự ngưỡng vọng tế
lễ còn ở bảy mươi đền miếu.”

Trung từ

Trung từ là nơi thờ 4 vị quan văn võ của vua Mây – sứ quân
Phạm Bạch Hổ. Trung từ gồm 5 gian, nằm nối với tiền tế nhưng nền nhà cao hơn nữa.
Trung từ có kết cấu kiểu vì giá chiêng, với khối mạng lưới hệ thống cột gỗ lim vững chãi kê
trên chân tảng đá lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái. Hai bên cột treo đôi câu đối
ca tụng công lao của tướng quân.

“Bá chủ hùng
đồ thập nhị sơn hà dư cổ luỹ

Thần cao linh khí
bán phân tinh vũ thử tiền giang”.

Tạm dịch:

“Anh hùng bá
chủ một vùng, non nước phân loại 12 sứ quân

Linh thiêng hiển
hiện của thần, khúc sông này nửa phân mưa nắng”.

Hậu cung

Hậu cung đền Mây gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn thuần và giản dị,
không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo
tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý.

Hậu cung đền Mây có tượng tướng quân Phạm Phòng Át, thân mẫu
và phu nhân tướng quân và con trai ông với vai trò là hoàng tử. Các tượng được
tạc rất sống động. Thời 12 sứ quân, Sứ quân Phạm Bạch Hổ được định hình và nhận định như vị Vua
quản trị và vận hành vùng xứ Đông to lớn gồm cả Thành Phố Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng Đất Cảng ngày này.

Tượng ông được tạc với tư thế oai phong, gian trung từ có tượng
bốn vị văn võ đã cùng Phạm Phòng Át khai thác, xây dựng cơ nghiệp, kích thước bằng
người thật, thể hiện sự tăng trưởng đến đỉnh điểm của nghệ thuật và thẩm mỹ điêu khắc thế kỷ
XVIII qua bàn tay vàng của nghệ nhân dân gian.

Đền Mây còn lưu giữ những bức đại tự, khảm trai, kiệu bát cống,
bia đá và 23 truyền thống phong của những vua triều Lê – Nguyễn. Trong sáu tấm bia đá,
giá trị nhất là bia khắc bài “Ðặng Châu từ phụng ký” của Tuần phủ
Hưng Yên Phạm Văn Toán làm năm thứ 11 (1899) triều vua Thành Thái, đã từng cùng
Thống chế Hoàng Kế Viêm đánh Pháp ở trận Cg cầu giấy, giết tướng giặc F.Garnie
(1873), được triều đình trọng dụng, phong chức Trung phụng đại phu Tham tri Bộ
binh, Phó đô ngự sử Viện Ðô sát. Nhân dịp Ðền Mây được trùng tu, ông đã dâng
bài văn bia ca tụng công đức của Phạm Phòng Át.

Lễ hội đền Mây

Lễ hội đền Mây được tổ chức triển khai thường niên ở hai thời gian khác
nhau: Tháng Giêng từ thời gian ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là liên hoan kỷ niệm ngày
sinh; từ thời gian ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là liên hoan kỷ niệm ngày hoá của
tướng quân Sứ quân Phạm Bạch Hổ. Ngoài ra, Từ 16 đến 24 tháng Sáu là ngày kỵ
thân mẫu Sứ quân Phạm Bạch Hổ.

Trong liên hoan ngoài tế lễ còn trình làng phần hội với nhiều trò
chơi truyền thống cuội nguồn mang đậm nét văn hoá của dân cư Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân,
hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ…

Ngày nay, liên hoan được tổ chức triển khai đơn thuần và giản dị hơn theo phong thái mới.
Năm 1992, Bộ VHTT đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử lịch sử dân tộc bản địa và kiến trúc nghệ thuật và thẩm mỹ.
Để hoà nhập với việc tăng trưởng của Phố Hiến – Hưng Yên, Đền Mây được quy hoạch,
trùng tu, tôn tạo để bảo vệ bảo vệ an toàn phục vụ khách thập phương và nhân dân trong vùng
trong những ngày liên hoan.

Nguồn: InterNet

Ths Nguyễn Thy Ngà

Trở về đầu trang

sứ quân Phạm Bạch Hổ danh tướng vua Ngô Quyền Đinh Tiên Hoàng đền Mây

0
Tổng số:


1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Các tin khác

  • Miếu Đồng Cổ, thờ phụng sơn thần Đồng Cổ (thần Trống Đồng)

  • Ghé thăm Khu di tích lịch sử Lệ Chi Viên

  • Đền Chôi thờ Đức Hỏa Nhạc đại vương, có công rèn roi sắt, ngựa sắt cho Thánh Gióng đánh giặc Ân.

  • Đền Hạ Mã xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, thờ phụng Thánh Gióng

  • Đền Hàng Tổng xã Xuân Thu, huyện Sóc Sơn thờ phụng Thánh Gióng

  • Đền Sọ (đền Tam Tổng, thờ phụng Thánh Phù Đổng Thiên vương thời Hùng vương thứ IV

  • Đền Thắng Trí, thờ phụng Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Dại vương

  • Đền Thanh Nhàn, thờ phụng Thánh Phù Đổng Thiên vương

  • Câu chuyện bảo vệ cảnh sắc xung quanh Đền thờ Hai Bà Trưng thời Pháp thuộc

  • Đền Sông thờ phụng Lạc Long Vương thượng đẳng thần, Hà Bá thủy quan đại vương và Ngư Phụ tiên sư

  • 12345…>>

Reply
7
0
Chia sẻ

Review Chia Sẻ Link Tải Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc ?

– Một số từ khóa tìm kiếm nhiều : ” Review Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Tải Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc “.

Giải đáp vướng mắc về Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc

Quý khách trọn vẹn có thể để lại Comments nếu gặp yếu tố chưa hiểu nha.
#Vị #tướng #lĩnh #Hưng #Yên #nào #đã #giúp #Ngô #Quyền #đánh #giặc Vị tướng lĩnh Hưng Yên nào đã hỗ trợ Ngô Quyền đánh giặc