Mục lục bài viết

Kinh Nghiệm về Con người nhân văn trong văn học trung đại 2022

Cập Nhật: 2022-03-02 03:30:15,You Cần biết về Con người nhân văn trong văn học trung đại. You trọn vẹn có thể lại Comment ở cuối bài để Mình đc lý giải rõ ràng hơn.

768

Soạn bài trực tuyến Ngữ văn 11

CONNGƯỜI CÔNG DÂN VÀ CON NGƯỜI CÁ NHÂNTRONG VĂN HỌC VIỆTNAMTRUNG ĐẠI.

I. Xét trên bình diện nội dung.
1. Con người công dân biểu lộ qua những bình diện:
Thứ nhất, là conngười gắn bó trách nhiệm với vận mệnh của dân tộc bản địa:Chiếu dời đô(Lý Công Uẩn);Hịch tướng sĩ văn(Trần Quốc Tuấn);Thuật hoài(Phạm Ngũ Lão);Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (NguyễnĐình Chiểu)

Thứ hai, là conngười có lý tưởng, tham vọng và khát vọng cao cả: Tụng giá hoàn kinh sư(Trần Quang Khải);Cảm hoài(Đặng Dung)
Thứ ba, có tầm hồnphóng khoáng, hồn hậu, chân thành: Thơ Nguyễn Trãi, thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơTrần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Minh Tông, Đây cũngchính là hình tượng của những con người gắn sát với cảm hứng yêu nước trong dòngchảy của văn học ViệtNamtrung đại.

2. Con người thành viên biểu lộ qua những bình diện
Thứ nhất, con ngườicá nhân với ý thức xác lập vẻ đẹp và tài năng của tớ: thơ Nguyễn Du, HồXuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,
Thứ hai, con ngườicá nhân với nhu yếu thể hiện tình cảm riêng tư, tâm sự u ẩn: Thơ Nguyễn Trãi,Nguyễn Bỉnh Khiêm, những nhân vật trongTruyềnkỳ mạn lục(Nguyễn Dữ),
Thứ ba, con ngườivới khát vọng tự do, bình đẳng, khát vọng tình yêu và niềm hạnh phúc: thể hiện tiêubiểu trong những ngâm khúc hình thức tuy nhiên thất lục bát nhưChinh phụ ngâm khúc(bản dịch của Đoàn Thị Điểm?);Cung oán ngâm khúc(Nguyễn Gia Thiều),Ai tư vãn(Lê Ngọc Hân);Tự tình khúc(Cao Bá Nhạ),Thu dạ lữ hoài ngâm(Đinh Nhật Thận),Bần nữ thán(khuyết danh),
Thứ tư, cảm hứnghành lạc và khát vọng nhu yếu trần thế của con người cá nhânCao hơn khát vọng tự do, khát vọng tự xác lập vẻ đẹphình thể, trí tuệ của tớ, văn học ViệtNamtrung đại trong năm thời gian cuối thế kỷ XVIIIđến hết TK XIX còn thể hiện cảm hứng hành. Tất cả chuyện phòng the, chăn gốiđược Hồ Xuân Hương mở màn như phát súng lệnh:
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng chân ngọc duỗi tuy nhiên tuy nhiên
Hay:
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo
Đến NguyễnCông Trứ, con người ngất ngưởng ấy tự trào khi nằm cạnh cô đào trẻ về tuổi củamình rằng:Ngũ thập niên tiềnnhị thập tam,vàcũng đã quá nhiều lần ông tương tư, ông bỡn đào già, bỡn vợ lẽ,
Những bìnhdiện của hình tượng con người thành viên trong văn học ViệtNamtrungđại gắn sát với nội dung cảm hứng nhân đạo và cảm hứng thế sự đời tư của cácnhà văn, nhà thơ.

II. Xét trên bình diện hình thức nghệ thuật và thẩm mỹ.
1. Ở Lever thể loại.
Qua khảo sátchúng tôi nhận thấy, hình tượng con người công dân thường xuất hiện ở những thểloại hành chức. Không khó để nhận ra hình tượng của những minh quân, lươngtướng, những nhân vật anh hùng hết lòng rất là phụng sự Tổ quốc. Những conngười công dân ấy xuất hiện trongChiếudời đô(Lý Công Uẩn),Hịch tướng sĩ văn(Trần Quốc Tuấn),Bình Ngô đại cáo(Nguyễn Trãi),Chiếu cầu hiền(một bài của Nguyễn Trãi, một bài củaNgô Thì Nhậm), , qua những bài thư, luận, tấu, thuyết của Nguyễn Trãi, NguyễnTrường Tộ, Phan Đình Phùng,
Ở thể loại sử kýhình tượng con người công dân cũng in đậm nét. Đó là một Trưng vương, một NgôQuyền, một Thái sư Trần Thủ Độ, một anh hùng Trần Quốc Tuấn, qua những trangsử của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên,
Các thể loạivăn học nghệ thuật và thẩm mỹ hình tượng, con người công dân vẫn xuất hiện như nhân vậtQuang Trung (Hoàng Lê nhất thống chíNgô gia văn phái), hay Nguyễn Hoàng và những chúa Nguyễn trongNam triều công nghiệp chícủa Nguyễn Khoa Chiêm, hình tượngngười nông dân nghĩa sĩ trongVăntế nghĩa sĩ Cần GiuộccủaNguyễn Đình Chiểu, Song tần số xuất hiện thấp hơn so với hình tượng con ngườicá nhân.
Nói khác đi,ở những thể loại văn học nghệ thuật và thẩm mỹ (chúng tôi phân biệt văn h Việt Nam trungđại xét về hiệu suất cao trọn vẹn có thể loại chính: văn học tập chức (cáo chiếu, hịch,biểu, thư, luận, thuyết, ) và văn học mang tính chất chất hình tượng (phú, thơ Đường
luật, truyện thơ lục bát, ngâm khúc, hát nói, ), hình tượng con người cá nhânthể hiện rõ ràng hơn.

Tuy nhiên, takhông thể và cũng không cần phân biệt rạch ròi giữa hai hình tượng con ngườicông dân và con người thành viên trong cùng một con người! Bởi nó luôn luôn tồntại những hai mặt của môi trường sống đời thường. Sự tác động qua lại này, thấy rõ ở quan niệmxuất xửcủa những tác gia Nho sĩ mà chúng tôi đềcập ở phần quy mô tác gia, phía sau .
Thể loạithơ Đường luật sự vận động từ con người công dân đến con người thành viên rõ néthơn. Ta thuận tiện và đơn thuần và giản dị nhận thấy hình tượng của những nhân vật trữ tình nguyện mộtlòng vì dân vì nước (con người công dân) như trongQuốc tộ(Đỗ Pháp Thuận),Thuật hoài(Phạm Ngũ Lão),Tụng giá hoàn kinh sư(Trần Quang Khải),Cảm hoài(Đặng Dung), đếnnhững bài thơ thất ngôn xen lục ngôn trong tậpQuốc âm thi tập(Nguyễn Trãi),
Và đến nửacuối TK XVIII cho tới hết TK XIX, hình tượng con người thành viên trong thơ Đườngluật lại chiếm ưu thế cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Nhiều bài thơ mang cảmhững thế sự của Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, nhiều nhân vật xác lập cái đẹpbản thể, cái tài hoa, sự sáng tạo của tớ qua thơ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,Nguyễn Khuyến, Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Cao Bá Quát,
Ở truyện thơlục bát, những ngâm khúc hình thức tuy nhiên thất lục bát, những bài hát nói, hình tượngcon nhân thành viên chiếm ưu thế tuyệt đối so với con người công dân.
2. Xét ở Lever ngôn từ:
Thứ nhất, hình tượngcon người công dân gắn sát với những hình ảnh và từ ngữ mang tính chất chất điển phạm.Và, điều dễ nhận thấy nhất lúc xây dựng con người công dân, những nhà thơ luôndùng khối mạng lưới hệ thống điển tích, lớp từ Hán Việt như một điều tất yếu. Xin đọc đoạn đầutrong Hịch tướng sĩ, hay mấy câu phú của Trương Hán Siêu tại đây để minh hoạ:Đại từ nhân xưng cũng mang tính chất chất ước lệ: ta, khanh, thiêntử, bề tôi, được sử dụng phổ cập.
Thứ hai, hình tượngcon người thành viên gắn sát với lớp từ thuần Nôm, dân gian, từ láy, từ tự xưng,thậm chí còn cả những câu chửi, tiếng gào,
3. Sự manh nha của câu thơ điệu nói.
Các nhà thipháp học nhận định rằng câu thơ, giọng thơ của văn học ViệtNamtrung đại là câu thơ điệu ngâm. Tức làcâu thơ không thể hiện dấu ấn thành viên của chủ thể trữ tình. Song, từ thực tếkhảo sát văn học Việt Nam trung đại đặc biệt quan trọng từ Hồ Xuân Hương trở về sau, chúngtôi thấy đã có sự manh nha của câu thơ điệu nói.
Ở câu thơđiệu nóicác đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, câu thơ điệu nóicó thể được cho phép nhà thơ thể hiện rõ ràng, dứt khoát lập trường tư tưởng, tìnhcảm của thành viên trữ tình. Câu thơ trở thành lời nói thành viên, nó có ngữ khí từ,vướng mắc, câu cảm thán, hướng tới một ai đó, hoặc hướng tới chính người đọc,theo phong cách tự bộc bạch, tâm sự với bạn hữu.

Câu thơ điệu nói giải phóng giọng điệu thành viên, làm cho nóhiện ra trên mặt phẳng, đồng thời tôn tạo lại chất nhạc của thơ không phải nhạctrầm bỗng réo rắc do phối hợp bằng trắc tạo ra mà là vì tiếng người, ngữ điệungười, giọng điệu người.
Thành phần của lời thơ trữ tình điệu nói rất phong phú chủng loại. Cócác hư từ, những cách lập luận, những khẩu hiệu, có tiếng hô lời chào, lời chêm,vướng mắc, đối đáp, có cách vắt dòng, nhiều khi cả khổ thơ chỉ là mộtcâu.
Đọc thơ Nguyễn Công Trứ, không khó để ta trọn vẹn có thể chọn dẫnchứng minh hoạ:
Tao ở trong nhà tao tao nhớ mi
Nhớ mi tao mới bước tiến đi
(Bỡn nhântình)
Nguyễn Khuyếncó khi sử dụng hàng loạt những hư từ để lấy vào thể thơ được cho là niêm luật phảichặt chẽ nhất: thơ Đường luật:
Cũng cờ cũng biển cũng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai
Một Tú Xương chửi đổng:
Đù cha đù mẹ cái dát giường
Đêm nằm chỉ thấy những đau thương
Đến mai mua nứa ông mần lại
Đù mẹ đù cha cái dát giường
(Chửidát giường)
Đó là yếu tố manh nha của câu thơ điệu nói, điều đặcbiệt quan trọng làm ra sự thành công xuất sắc vang dội của phong trao thơ mới ở thậpniên 30 40 của thế kỷ XX.
III. Kết luận.
Thứ nhất, ở thời kỳổn định và tăng trưởng của nhà nước phong kiến, mối quan tâm số 1 của vănhọc đó là hình tượng con người công dân gắn bó với những trận cuộc chiến tranh vệquốc vĩ đại của dân tộc bản địa và công cuộc xây dựng giang sơn. Ý thức trách nhiệm,những tình cảm công dân lớn lao, cao cả được đặc biệt quan trọng tôn vinh.
Thứ hai, trong giaiđoạn nhà nước phong kiến trượt dài trên cái dốc suy thoái và khủng hoảng, con người cá nhânvới ý thức đậm cá tính, tài năng với nhu yếu tự xác lập và khát vọng mãnh liệtvề tự do, tình yêu, niềm hạnh phúc lại là hình tượng TT của những tác phẩm chứađựng tinh thần nhân văn cao cả. Sự chuyển biến từ chỗ đặc biệt quan trọng quan tâm đếnhình tượng con người công dân đến chỗ đặc biệt quan trọng quan tâm đến hình tượng conngười thành viên thể hiện rõ ràng đặc trưng của văn học ViệtNamtrung đại.
Thứ ba, con ngườicá nhân hình thành và tăng trưởng mạnh mẽ và tự tin ở văn Việt Nam trung đại quá trình hậukỳ đang trở thành một động lực nội sinh quan trong góp thêm phần hình thành phong tràoThơ Mới xuất sắc 1932 1945./.

Bài tương quan:

  • Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ cần giuộc
  • Phân tích Hạnh phúc của một tang gia
  • Phân tích nghệ thuật và thẩm mỹ trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia
  • Nghệ thuật trào phúng trong Hạnh phúc của một tang gia
  • MỤC LỤC SOẠN VĂN, SOẠN BÀI, HỌC TÔT NGỮ VĂN 11
  • ÔN TẬP PHẦN LÀM VĂN LỚP 11

Ý KIẾN CỦA BẠNLeave a Comment

Reply
1
0
Chia sẻ

Video full hướng dẫn Chia Sẻ Link Down Con người nhân văn trong văn học trung đại ?

– Một số Keywords tìm kiếm nhiều : ” đoạn Clip hướng dẫn Con người nhân văn trong văn học trung đại tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Down Con người nhân văn trong văn học trung đại “.

Giải đáp vướng mắc về Con người nhân văn trong văn học trung đại

You trọn vẹn có thể để lại Comment nếu gặp yếu tố chưa hiểu nha.
#Con #người #nhân #văn #trong #văn #học #trung #đại Con người nhân văn trong văn học trung đại