Mục lục bài viết

Kinh Nghiệm Hướng dẫn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975 Mới Nhất

Cập Nhật: 2022-02-15 03:06:04,Bạn Cần biết về Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975. Bạn trọn vẹn có thể lại Comments ở phía dưới để Admin được tương hỗ.

624

Đường lối của Đảng trong lãnh đạo cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)?

Quảng cáo

Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (tháng 7-1954), cách mạng Việt Nam có những thuận tiện mới nhưng cũng đứng trước nhiều trở ngại, thử thách. Yêu cầu bức thiết đưa ra cho Đảng ta là phải hoạch định được đường lối cách mạng đúng đắn, vừa phù thích phù hợp với tình hình trong nước, vừa thích hợp xu thế của thời đại.

Tóm lược đại ý quan trọng trong bài

  • Đường lối của Đảng trong lãnh đạo cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)?
  • Đường lối cách mạng – kháng chiến độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong thời kỳ 1954 – 1975
  • Đường lối cách mạng Việt Nam ở miền Nam (1954 -1964)
  • Vào quá trình cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7-1954) đã xác lập: đế quốc Mỹ là người thủ chính của nhân dân toàn thế giới và hiện giờ đang trở thành quân địch chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Như vậy, Đảng ta đã sớm xác lập được: quân địch của cách mạng Việt Nam. Tiếp đó, tháng 9-1954,

    Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, trách nhiệm mới và quyết sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những điểm lưu ý đa phần của tình hình trong lúc cách mạng Việt Nam xộc vào một trong những quá trình mới là: từ cuộc chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia thành hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thị ; từ phân tán chuyển đến triệu tập.

    Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955) Trung ương Đảng nhận định: muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, tiến hành thống nhất, hoàn thành xong độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững và tăng cường cuộc dấu tranh của nhân dân miền Nam.

    Đặc biệt, tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, quản trị Hồ Chí Minh đã xác lập: ta đang đồng thời tiến hành hai kế hoạch cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân và cách social chủ nghĩa. Nhiệm vụ củng cố miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội có tính chất quyết định hành động cho toàn bộ thắng lợi cách mạng trong quá trình mới. Lực lượng cách mạng ở miền Nam được duy trì và tăng trưởng là yếu tố trực tiếp quyết định hành động thắng lợi của cuộc đấu tranh cách mạng của miền Nam.

    Từ năm 1954 đến năm 1959, Mỹ – Diệm trắng trợn vi phạm Hiệp định Giownevơ tiến hành tổng

    tuyển cử riêng rẽ khủng bố, đàn áp dã man trào lưu yêu nước của nhân dân miền Nam. Tình hình đó đặt cách mạng miền Nam vào tình trạng rất là cấp bách. Chính vì vậy, tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương đã triệu tập Hội nghị lần thứ 15 khoá II. Hội nghị họp nhiều đợt, ra Nghị quyết về trách nhiệm cách mạng ở miền Nam. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết gồm:

    – Hội nghị xác lập cách mạng Việt Nam thời gian lúc bấy giờ còn có hai trách nhiệm kế hoạch cách social chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân ở miền Nam. Hai trách nhiệm kế hoạch đó tuy có tính chất rất khác nhau, nhưng có quan hệ hữu cơ với nhau, tuy nhiên tuy nhiên tiến hành.

    – Nghị quyết chỉ rõ trách nhiệm cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là: “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, tiến hành độc lập dân tộc bản địa vaà người cày có ruộng, hoàn thành xong cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh”‘.

    – Phương hướng tăng trưởng của cách mạng miền Nam: “ngoài con phố cách mạng, nhân dân miền Nam không tồn tại con phố nào khác”, cho nên vì thế con

    đường tăng trưởng cơ bản của cách mạng miền Nam là “khởi nghĩa giành cơ quan ban ngành về tay nhân dân… đó là lấy sức mạnh mẽ của quần chúng, nhờ vào lực lượng chính trị của quần chúng là đa phần, kết hơp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên cơ quan ban ngành cách mạng của nhân dân”‘.

    – Hội nghị dự kiến: “cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng luôn có thể có kĩ năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới: đó là cuộc chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch, và thắng lợi ở đầu cuối nhất định về ta”.

    – Nghị quyết chỉ rõ ở miền Nam nên phải có Mặt trận dân tộc bản địa thống nhất riêng cho phù thích phù hợp với tính chất và trách nhiệm của cách mạng.

    Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử dân tộc bản địa to lớn, không những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, mà còn thể hiện rõ bán lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong trong năm tháng trở ngại của cách mạng. Có thể nói, đến Hội nghị 15, đường lối cách mạng ở miền Nam đã được hoạch định một cách cơ bản. Sau đó, đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (từ thời gian ngày 5 đến ngày 10-9-1960), Đảng ta đã xác lập những nội dung cơ bản đó. Đại hội đã bổ trợ update và hoàn hảo nhất đường lối kế hoạch chung của cách mạng Việt Nam. Trong số đó, Đại hội đã vạch ra trách nhiệm chung, trách nhiệm kế hoạch, mục tiền kế hoạch của cách mạng, đồng thời nêu bật quan hệ giữa hai kế hoạch cách mạng ở hai miền.

  • Đường lối của Đảng về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1965 – 1975)
  • Dưới sự lãnh dạo của Đảng, quân và dân ta ở miền Nam đã triệu tập sức lực làm thất bại kế hoạch “cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng” của đế quốc Mỹ. Chiến thắng Ấp Bắc (Cai Lậy – Mỹ Tho) thời gian đầu tháng 1-1963 mở đầu cao trào diệt quân ngụy. Chiến thắng Bình Giã (Bà Rịa) từ thời gian ngày một-12-1964 đến ngày 3-1-1965, thắng lợi An Lão (Bình Định), thắng lợi Ba Gia (Tỉnh Quảng Ngãi) ngày 25-5-1965, thắng lợi Đồng Xoài từ thời gian ngày 11-5 đến ngày 22-7-1965 đã làm thất bại trọn vẹn kế hoạch “cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng” của Mỹ.

    Sau thất bại trong kế hoạch “cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng” năm 1965, đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và quân đội của những nước phụ thuộc Mỹ vào miền Nam Việt Nam nhằm mục tiêu tiến hành kế hoạch “cuộc chiến tranh cục bộ”, đồng thời phát động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và thủy quân so với miền Bắc.

    Trước tình hình đó, trong năm 1965, Trung ương Đảng đã tiến hành hai Hội nghị: Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3-1965) và Hội nghị Trung ương lần thứ 12 (tháng 12-1965).

    Hai Hội nghị đã phân tích toàn vẹn thâm thúy kế hoạch mới của Mỹ:

    + Tính chất cơ bản của trận cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới. Mỹ tuy có tăng về lực lượng quân sự chiến lược nhưng lại sở hữu nhiều chỗ yếu cơ bản, nhất là về chính trị.

    + Về phía ta, từ một nửa nước có cuộc chiến tranh thành toàn nước có cuộc chiến tranh với mức độ và hình thức rất khác nhau. Cuộc chiến đấu gay go, quyết liệt nhưng ta đã vững mạnh hơn nhiều trước, đã có sẵn sàng về tư tưởng và tổ chức triển khai.

    Từ đó, Đảng rút ra kết luận:

    Một là, so sánh lực lượng giữa ta và địch cơ bản không thay đổi. Vì thế, ta cần giũ vững và phát huy kế hoạch tiến công.

    Hai là, tiếp tục tiến công và phản công, phối hợp đấu tranh quân sự chiến lược và chính trị nhưng đấu tranh quân sự chiến lược ngày càng có tác dụng quyết định hành động trực tiếp.

    Ba là, chủ trương tăng cường hơn thế nữa hoạt động giải trí và sinh hoạt đối ngoại và đấu tranh ngoại giao, tăng cường tiếp xúc cả minh bạch và bí mật với nhiều nước trên toàn thế giới, làm rõ chính nghĩa và thiện chí của ta.

    Hội nghị Trung ương lần thứ 11 và 12 là yếu tố tăng trưởng rất quan trọng của đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trong tình thế phải trực tiếp đánh lực lượng viễn chinh xâm lược Mỹ. Ở đây, ngoài quyết tâm đánh Mỹ thể hiện bản lĩnh vững vàng của Đảng, còn thể hiện sự tăng trưởng kinh nghiệm tay nghề khoa học, nghệ thuật và thẩm mỹ lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng của Đảng được thừa kế từ những thời kỳ trước.

    Với đường lối đúng đắn của Đảng, quân và dân ta trên toàn nước đã kết thành một khối. Ở miền Nam, đã dành thắng lợi to lớn trong mùa khô 1965 – 1966, 1966 – 1967 và cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã làm thất bại kế hoạch “cuộc chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán ở Pari từ thời gian ngày 13-5-1968 và từ thời gian ngày một-11-1968 Mỹ buộc phải chấm hết ném bom miền Bắc.

    Sang năm 1969, đế quốc Mỹ chuyển sang tiến hành kế hoạch Việt Nam hoá cuộc chiến tranh” với thủ đoạn cực kỳ tàn bạo và thâm độc. Trong trong năm 1969, 1970, cách mạng miền Nam gặp nhiều trở ngại và tổn thất. Nhưng ý chí và quyết tâm thắng lợi của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân không hề suy giảm. Tháng 2- 1971, địch mở cuộc hành quân “Lam Sơn 719”. Quân ta thắng lớn trong Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào. Chiến thắng này chứng tỏ quân ngụy Sài Gòn không thể đương đầu được với quân giải phóng, nhất là lực lượng quân nòng cốt của miền Bắc. Cuộc tiến công Xuân – Hè 1972 trên toàn mặt trận miền Nam thể hiện ý chí và sức mạnh mẽ của quân và dân ta. Để đối phó, Mỹ buộc phải “Mỹ hoá” trở lại trận cuộc chiến tranh bằng trận cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai so với miền Bắc khởi đầu từ thời gian ngày 6-4-1972 và đỉnh tốt nhất là cuộc tập kích kế hoạch bằng máy bay B52 vào Tp Hà Nội Thủ Đô, Hải Phòng Đất Cảng 12 ngày đêm thời gian cuối thời điểm tháng 12-1972. Thất bại trong trận “Điện Biên Phủ trên không” ở Tp Hà Nội Thủ Đô, Hải Phòng Đất Cảng, Mỹ phải trở lại Hội nghị đàm phán và ký kết Hiệp định Pari (27-1-1973) chấm hết sự xuất hiện của quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam.

    Sau khi Hiệp định Pari được ký kết, quân Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam (29-3-1973) nhưng đế quốc Mỹ vẫn ra sức viện trợ cho cơ quan ban ngành Sài Gòn, tiếp tục tiến hành kế hoạch “Việt Nam hoá cuộc chiến tranh”. Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Mỹ trợ giúp đã lấn chiếm, ngoan cố tiến hành cuộc chiến tranh, vi phạm những lao lý của Hiệp định Pari. Tình hình này đã cho toàn bộ chúng ta biết con phố tăng trưởng của cách mạng ở miền Nam vẫn phải là tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng vượt mặt ngụy quân, ngụy quyền để giải phóng miền Nam, thống nhất giang sơn.

    Để thúc đẩy sự tăng trưởng của cách mạng miền Nam trong quá trình mới, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III có vai trò đặc biệt quan trọng. Hội nghị đợi I từ thời gian ngày 19-6 đến ngày 6-7-1973 và đợt II từ thời gian ngày một-10 đến ngày 4-10-1973 với những nội dung đa phần sau:

    Hội nghị đã tổng kết 18 năm chiến đấu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đưa ra trách nhiệm của cách mạng miền Nam trong quá trình mới. Đó là yếu tố tổng kết có mức giá trị thâm thúy cả về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho những quyết sách trong quá trình mới.

    – Hội nghị nhận định đế quốc Mỹ vẫn tiến hành “học thuyết Níchxơn”, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, chia cắt lâu dài giang sơn ta, từ đó xác lập dù tình hình tăng trưởng ra làm thế nào, con phố cách mạng miền Nam vẫn là con phố đấm đá bạo lực. Vì vậy, phải nắm vững thời cơ giữ vững thế kế hoạch tiến công và chỉ dạo linh hoạt để lấy cách mạng tiến lên.

    – Hội nghị Trung ương lần thứ 21 cũng dự kiến hai kĩ năng tăng trưởng của cách mạng miền Nam, tuy nhiên Trung ương Đảng cũng nhận định rằng: Dù tình hình tăng trưởng theo kĩ năng nào, con phố tiến lên giành thắng lợi của cách mạng miền Nam chỉ trọn vẹn có thể là con phố đấm đá bạo lực trình làng dưới hình thức này hay hình thức khác. Ta phải sẵn sàng đối phó chắc thắng với kĩ năng xấu nhất là địch gây lại cuộc chiến tranh. Đồng thời, Nghị quyết Trung ương lần thứ 21 cũng đưa ra những giải pháp cơ bản để thúc đẩy cách mạng miền Nam tăng trưởng và bảo vệ bảo vệ an toàn cho thắng lợi trọn vẹn.

    Từ Nghị quyết Trung ương 15 (1959) đến Nghị quyết Trung ương 21 (1973) là yếu tố tăng trưởng đường lối cách mạng của Đảng ở miền Nam và đã cho toàn bộ chúng ta biết quy luật tăng trưởng tất yếu của cách mạng miền Nam là con phố đấm đá bạo lực, là cuộc chiến tranh cách mạng. Đường lối này được hoạch định và tăng trưởng trên cơ sở tư duy biện chứng từ thực tiễn của trận cuộc chiến tranh cách mạng trong thế kỷ XX chống chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ.

    Với một đường lối cách mạng đúng đắn, dữ thế chủ động, sáng tạo, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng miền Nam đă từng bước chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế liên tục tiến công địch và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Trải qua quy trình đấu tranh chống lại những kế hoạch cuộc chiến tranh của đế quố Mỹ từ việc làm thất bại hình thức nổi bật nổi bật của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam (1954-1960), đến làm phá sản kế hoạch “cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng” (1961 – 1965), kế hoạch ”cuộc chiến tranh cục bộ” (1965-1968) và kế hoạch “Việt Nam hoá cuộc chiến tranh” (1960 – 1975) của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari (27-1-1973), công nhận những quyền dân tộc bản địa cơ bản của Việt Nam. Cách mạng miền Nam đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh điểm là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử dân tộc bản địa.

    Cuộc tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 khởi đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên đánh vào Buôn Ma Thuột lúc 1 giờ 35 phút ngày 10-3-1975. Trước tình hình thắng lớn ở Tây Nguyên, cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18-3-1975 đã quyết định hành động giải phóng miền Nam trong năm 1975.

    Phối thích phù hợp với mặt trận Tây Nguyên, ngày 21-3-1975, chiến dịch Huế – Đà Nẫẵng đã khởi đầu. Ngày 26-3, ta giải phóng Huế, ngày 29-3, giải phóng Tp Thành Phố Đà Nẵng. Trên đà thắng lợi của mặt trận Tây Nguyên và Huế – Tp Thành Phố Đà Nẵng, ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp và chủ trương: triệu tập nhanh nhất có thể lực lượng binh khí kỹ thuật và vật chất, giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.

    Sau khi làm tan rã quân đoàn I và II, giải phóng trọn vẹn quân khu I và II, ngày một-4-1975, Bộ Chính trị quyết định hành động: giải phóng miền Nam trong tháng bốn-1975.

    Sau khi tạo thế và lực, ngày 26-4-1975, Chiến dịch lịch sử dân tộc bản địa Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn – Gia Định khởi đầu. Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng đã tung bay trên nóc Phủ Tổng thống ngụy (Dinh Độc lập). Toàn bộ lực lượng quân sự chiến lược và cỗ máy cơ quan ban ngành địch ở quân khu III, quân đoàn III bị tiêu diệt. Ngày 2-5-1975, trận chiến đấu để giải phóng những vùng đất còn sót lại và những hòn đảo ngoài biển đều thắng lợi, quyết sách ngụy quyền sụp đổ trọn vẹn. Sau 117 năm bị đô hộ, giang sơn Việt Nam sạch bóng quân xâm lược, Nam Bắc liền một dải.

    Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất của sự việc nghiệp giải phóng dân tộc bản địa do Đảng và quản trị Hồ Chí Minh lãnh đạo. Thắng lợi này đã kết thúc vẻ vang 30 năm cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc bản địa, bảo vệ Tổ quốc, chấm hết vĩnh viễn ách thống trị kéo dãn hơn thế nữa một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân, đế quốc trên giang sơn ta, hoàn thành xong về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân trên toàn nước, bảo vệ và tăng trưởng những thành tựu của cách social chủ nghĩa ở miền Bắc, hoàn thành xong thống nhất giang sơn. Thắng lợi này đã mở ra thuở nào kỳ mới cho dân tộc bản địa Việt Nam: giang sơn độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội, thắng lợi nghèo nàn, lỗi thời, xây dựng giang sơn giàu mạnh, xã hội công minh, văn minh và bảo vệ vững chãi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, góp thêm phần làm tăng thêm sức mạnh và thế tiến công cách mạng trên toàn thế giới, động viên, cổ vũ hàng trăm triệu người đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc bản địa và chủ nghĩa xã hội.

    Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12-1976) đã nhận được định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc bản địa dân tộc bản địa ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu lượng sáng ngời về yếu tố toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử dân tộc bản địa toàn thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có vai trò quốc tế to lớn và có tính thời đại thâm thúy”.

    Loigiaihay

    Bài tiếp theo

    • Nội dung và ý nghĩa của Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 21 khoá III (tháng 7-1973)?

    • Chủ trương của Đảng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tại Hội nghị Trung ương 11 (tháng 3-1965) và Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12-1965)?

    • Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương khoá II (tháng 1-1959) và đường lối cách mạng miền Nam?

    • Chủ trương và kinh nghiệm tay nghề lãnh đạo của Đảng để giữ vững thành quả cách mạng trong quá trình 1945 – 1946?

    • Kết quả, ý nghĩa lịch sử dân tộc bản địa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm tay nghề kinh nghiệm tay nghề – Bài 2

    Quảng cáo

    Báo lỗi – Góp ý

    Đường lối cách mạng – kháng chiến độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong thời kỳ 1954 – 1975

    Ngày đăng: 26/04/năm trước – 09:04

    Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc thắng lợi. Song, giang sơn Việt Nam bị phân thành hai miền với hai quyết sách chính trị rất khác nhau. Miền Bắc được trọn vẹn giải phóng, hòa bình đã vãn hồi. Miền Nam do Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm thống trị, chúng tiến hành cuộc “cuộc chiến tranh đơn phương”, đánh phá quyết liệt trào lưu cách mạng miền Nam. Hiệp định Giơnevơ bị Mỹ, Diệm phá hoại triệt để. Tình cảnh đồng bào miền Nam như “cá chậu, chim lồng”, môi trường sống đời thường cực kỳ trở ngại và căng thẳng mệt mỏi. Một vướng mắc lớn đưa ra cho Đảng ta, quản trị Hồ Chí Minh và nhân dân ta là cách mạng Việt Nam ở miền Bắc và miền Nam tiến lên bằng con phố nào? Miền Bắc có xây dựng xã hội chủ nghĩa không và xây dựng bằng phương pháp nào trong lúc cuộc chiến tranh đang rình rập ở phía nam vĩ tuyến 17? Còn miền Nam có tiếp tục cuộc đấu tranh để giải phóng nửa nước còn sót lại, hay tạm ngưng “trường kỳ mai phục”, “chờ đón thời cơ”, xây dựng miền Bắc mạnh lên sẽ thu hút miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà, theo lời khuyên của Trung Quốc, Liên Xô?, v.v.. Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh nhận định rằng bất kỳ tình hình, Đk nào, cách mạng Việt Nam ở miền Nam và miền Bắc cũng phải tiến lên, không được tạm ngưng; nhưng phải có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, phù thích phù hợp với tình hình, sát đúng với tình hình trong nước và quốc tế. Hiện nay ở miền Nam nếu dùng đấm đá bạo lực quân sự chiến lược, liệu có xẩy ra cuộc chiến tranh lớn không? Liên Xô, Trung Quốc và toàn thế giới có ủng hộ không? Nhân dân ta có sẵn sàng đồng ý cuộc chiến tranh không? Nếu dùng phương pháp đấu tranh chính trị như trong năm đầu sau năm 1954, liệu ta có buộc được Mỹ – Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ không? Trong thời đại toàn thế giới đã chia ra làm hai phe đối kháng, mọi trận cuộc chiến tranh đều dính đến liên minh giữa những nước, đánh Mỹ mà không tồn tại liên minh, không được phe xã hội chủ nghĩa và nhân dân toàn thế giới đống ý ủng hộ, nhất là Liên Xô, Trung Quốc thì cách mạng sẽ gặp muôn vàn trở ngại, thậm chí còn thất bại. Bao nhiêu vướng mắc mang tầm kế hoạch có quan hệ sống còn so với dân tộc bản địa, Tổ quốc, quản trị Hồ Chí Minh và Đảng của Người cùng nhân dân phải tìm lời giải đáp, trong số đó trách nhiệm nặng nề nhất, trước tiên thuộc về quản trị Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Phải sau bốn năm cuộc đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ của nhân dân ta trải qua một đoạn đường cách mạng đầy sóng gió với bao mất mát, quyết tử, đau thương và vấp váp, cùng những dịch chuyển thăng trầm của tình hình chính trị toàn thế giới và quyết sách đối ngoại của những nước trong khối mạng lưới hệ thống xã hội chủ nghĩa, quản trị Hồ Chí Minh rút ra kết luận: Phải đặt cách mạng miền Nam trong cách mạng chung của toàn nước và cách mạng việt nam trong cách mạng toàn thế giới, thì mới có thể vạch ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Trên tinh thần đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lần thứ 15 (mở rộng) khóa II, tháng 1-1959 xác lập: Miền Bắc phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Nam phải nắm vững tư tưởng kế hoạch tiến công, tiến lên bằng con phố đấm đá bạo lực cách mạng, ngoài con phố đó không hề con phố nào khác. Phương hướng cơ bản của cách mạng miền Nam là “Khởi nghĩa giành cơ quan ban ngành về tay nhân dân. Theo tình hình rõ ràng và yêu cầu lúc bấy giờ của cách mạng thì con phố đó là lấy sức mạnh mẽ của quần chúng, nhờ vào lực lượng chính trị của quần chúng là đa phần, kết thích phù hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên cơ quan ban ngành cách mạng của nhân dân”1. Đó là con phố cơ bản của cách mạng, là tiềm năng phấn đấu của nhân dân ta. “Cách mạng Việt Nam ở miền Nam nói chung không thể đi ra ngoài quy luật chung của cách mạng ở những nước thuộc địa và nửa thuộc địa từ trước đến nay”2. Trong quy trình đấu tranh lâu dài, gian truân, phức tạp, ta dùng hình thức đấu tranh chính trị là đa phần. Song, quân thù quyết dìm cách mạng trong biển máu, cho nên vì thế trong một chừng mực nhất định, ở những địa phận nhất định, ta phải dùng vũ trang tuyên truyền, vũ trang tự vệ tương hỗ cho đấu tranh chính trị. “Đó là một điều thiết yếu. Tuy nhiên, khi sử dụng lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền, nên phải thấu suốt nguyên tắc phục vụ cho đấu tranh chính trị, và phục tùng quyền lợi của đấu tranh chính trị”3. Chủ trương của Đảng nhấn mạnh vấn đề đấu tranh vũ trang phải phục tùng chính trị nhằm mục tiêu mục tiêu kiềm chế sự phản ứng của địch và toàn thế giới, ngăn ngừa Mỹ tăng cường quân sự chiến lược sớm, tạo Đk cho cách mạng miền Nam sẵn sàng. Dưới ánh sáng của đường lối và phương pháp cách mạng do Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh vạch ra, năm 1959-1960, nhân dân miền Nam làm cuộc Đồng khởi thắng lợi, đưa cách mạng Việt Nam ở miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng lên thế tiến công. Đồng khởi thắng lợi, cách mạng miền Nam chẳng những không trở thành cô lập, mà còn được bạn hữu ủng hộ. Điều đó chứng tỏ Nghị quyết Trung ương 15 của Đảng là thành công xuất sắc nổi bật nổi bật về đường lối kháng chiến và phương pháp cách mạng độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta. Tiếp tục cuộc Đồng khởi bằng cuộc chiến tranh cách mạng. Rút kinh nghiệm tay nghề từ thực tiễn, Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh đã bổ trợ update, tăng trưởng và từng bước hoàn thiện đường lối kháng chiến, kế hoạch và phương pháp cách mạng miền Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, năm 1960, Đảng ta chủ trương: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, nhất quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, tăng cường cách social chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời tăng cường cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân ở miền Nam, tiến hành thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp thêm phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Khu vực Đông Nam Á và toàn thế giới”4 Đó là đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc bản địa và chủ nghĩa xã hội, tiến hành đồng thời hai kế hoạch cách mạng ở hai miền việt nam: cách social chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân ở miền Nam. Nhiệm vụ của miền Bắc là tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chãi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, niềm hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh tiến hành thống nhất nước nhà. Đây là trách nhiệm quyết định hành động nhất so với việc tăng trưởng của cách mạng việt nam. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, tiến hành độc lập dân tộc bản địa, người cày có ruộng, góp thêm phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Đây là trách nhiệm quyết định hành động trực tiếp so với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến hành hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Mối quan hệ giữa hai trách nhiệm ở hai miền Bắc – Nam gắn bó nhau ngặt nghèo, tác động và tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng tăng trưởng và đều nhằm mục tiêu hoàn thành xong một tiềm năng cách mạng và mục tiêu chính trị. Nhiệm vụ kế hoạch của miền Bắc và miền Nam trên đây làm nổi rõ điểm lưu ý lớn số 1 của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ xâm lược, là cùng một lúc tiến hành đồng thời hai kế hoạch cách mạng ở hai miền rất khác nhau, nhưng đều nhằm mục tiêu một tiềm năng chung của cách mạng Việt Nam, do một đảng lãnh đạo, một nhà nước điều hành quản lý. Đó là yếu tố sáng tạo rất độc lạ và rất khác nhau, nó xác lập đường lối cách mạng và kháng chiến cũng như phương pháp cách mạng do Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh vạch ra trong quá trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo.

    Nội dung đa phần của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc bản địa và chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản trị Hồ Chí Minh là:

    Một, kiên trì tiềm năng cách mạng giải phóng dân tộc bản địa, cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân và cách social chủ nghĩa, phối hợp ngặt nghèo ba cuộc cách mạng đó trong quy trình kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

    Kiên trì tiềm năng cách mạng giải phóng, cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân và cách social chủ nghĩa là kiên trì mục tiêu chính trị của cách mạng Việt Nam đã đưa ra trong Chính cương vắn tắt của Đảng 1930, là thực ra của đường lối, kế hoạch cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa đế quốc, thực dân tiến hành trận cuộc chiến tranh xâm lược việt nam và duy trì ách thống trị của chúng so với nhân dân Việt Nam, lúc nào chúng cũng câu kết ngặt nghèo với giai cấp địa chủ, phong kiến, giai cấp tư sản mại bản phản động và những thành phần chống lại Tổ quốc và dân tộc bản địa, sẵn sàng làm tay sai cho ngoại bang. Để vượt mặt trận cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và đập tan ách thống trị của chúng, nhân dân ta không riêng gì có làm một cuộc cách mạng giải phóng, mà phải tiến hành cả ba cuộc cách mạng giải phóng, cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân và cách social chủ nghĩa. Kết hợp ba cuộc cách mạng này là giữ vững kim chỉ nan cho nhân dân ta vượt qua mọi trở ngại, ác liệt, đi đến đích ở đầu cuối của chủ nghĩa xã hội, tăng thêm niềm tin vào sự nghiệp cách mạng mà người ta đang theo đuổi, phấn đấu quyết tử, củng cố tin vào Đảng và tiền đồ của cách mạng. Hoàn thành thắng lợi ba cuộc cách mạng đó, Đảng ta, nhân dân ta mới thực sự giải phóng được trọn vẹn Tổ quốc, giải phóng được giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người triệt để nhất; đồng thời xử lý và xử lý tốt, hòa giải và hợp lý giữa quyền lợi dân tộc bản địa với tiềm năng hòa bình, độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân toàn thế giới.

    Hai, nhờ vào dân, phát huy lòng yêu nước của nhân dân và sức mạnh dân tộc bản địa, tiến hành đồng thời hai kế hoạch cách mạng ở hai miền dưới sự lãnh đạo triệu tập, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản trị Hồ Chí Minh.

    Nhân dân ta có một lòng yêu nước nồng nàn và trở thành truyền thống cuội nguồn quý báu của dân tộc bản địa: “Từ xưa đến nay, mọi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi sục, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ và tự tin, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, trở ngại, nó nhấn chìm toàn bộ lũ bán nước và lũ cướp nước”5. Nhân dân ta đã vượt mặt trận cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ năm 1954 là một minh chứng hùng hồn sức mạnh mẽ của lòng yêu nước. Ngày nay, việt nam trong thời gian tạm thời bị chia cắt thành hai miền, quân địch mới là đế quốc Mỹ và bè lũ bán nước Ngô Đình Diệm mạnh hơn lực lượng cách mạng miền Nam nhiều lần, phe xã hội chủ nghĩa – nhất là Liên Xô, Trung Quốc sự không tương đồng về đường lối, muốn giữ cách mạng trong thế thủ, trong lúc ta phải tiến hành đồng thời hai kế hoạch cách mạng rất khác nhau ở hai miền, điều này đã gây cho nhân dân ta muôn vàn trở ngại, phức tạp trên nhiều mặt. Với quan điểm sự nghiệp cách mạng là của quần chúng, “việc gì khó dân liệu cũng xong”, Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh coi quần chúng nhân dân là gốc, là nền của cuộc kháng chiến, là nơi dựa vững chãi của cách mạng. Dựa hẳn vào dân, Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh đã chú trọng lãnh đạo nhân dân phát huy cao độ lòng yêu nước, tạo ra sức mạnh mới để chống lại sở hữu hiệu suất cao trận cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của đế quốc Mỹ; đồng thời không ngừng nghỉ chăm sóc cho đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Bồi dưỡng sức dân là một trong những trách nhiệm đặc biệt quan trọng quan trọng của Đảng và quản trị Hồ Chí Minh và khối mạng lưới hệ thống chính trị của Đảng, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, của toàn bộ những hợp tác xã và những ủy ban nhân dân những cấp. quản trị Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn đảng viên, cán bộ bất kỳ trường hợp nào thì cũng phải bám chặt lấy dân, dựa hẳn vào dân để hoàn thành xong trách nhiệm cách mạng trong phạm vi được phân công. Trong khi nhờ vào dân phải làm cho dân mến, dân tin, phải tiến hành phương châm “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành với chủ” của nhân dân. Dựa vào dân là một trong những nội dung của đường lối cách mạng và kháng chiến của Đảng ta trong chống Mỹ, cứu nước.

    Đế quốc Mỹ, bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm chẳng những xâm chiếm miền Nam, ngăn cản sự tăng trưởng của xã hội miền Nam, mà còn ráo riết sẵn sàng “Bắc tiến” “lấp sông Bến Hải”, tiến hành cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Bắc Việt Nam, phá hoại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do đó, Mỹ – Diệm chẳng những là quân địch của nhân dân miền Nam hiện giờ đang bị chúng thống trị, mà còn là một quân địch của tất cả dân tộc bản địa Việt Nam, của nhân dân miền Bắc được giải phóng. Chính sự xâm lược của đế quốc Mỹ đã tạo ra trong xã hội Việt Nam những xích míc đa phần:

    – Mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm lược, giai cấp địa chủ, phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam và một bên là cả dân tộc bản địa Việt Nam, nhân dân toàn nước Việt Nam, gồm có nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam.

    – Mâu thuẫn giữa con phố xã hội chủ nghĩa với con phố tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc.

    Để xử lý và xử lý hai xích míc cơ bản trên, nhân dân ta phải xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và hoàn thành xong cuộc cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân ở miền Nam. Ra sức củng cố miền Bắc, làm chỗ tựa cho nhân dân miền Nam đấu tranh; mặt khác nhân dân ta phải nhất quyết đánh đổ ách thống trị của Mỹ – Diệm ở miền Nam. Nếu không nhất quyết đánh Mỹ – Diệm, giải phóng miền Nam, thì không thể bảo vệ được miền Bắc, không thể tạo nền hòa bình cho miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên bước đường hoàn thành xong hai kế hoạch cách mạng ở hai miền, điều quan trọng là phải giữ vững vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng và quản trị Hồ Chí Minh; đồng thời phải nắm chắc cơ sở quần chúng cách mạng, xây dựng, tăng trưởng nó lên thành một lực lượng mạnh mẽ của cuộc kháng chiến. Như vậy, miền Bắc đánh Mỹ bằng sức mạnh mẽ của chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc bản địa; miền Nam đánh Mỹ bằng sức mạnh mẽ của độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo, chỉ huy của một đảng Mác – Lênin chân chính và tư tưởng Hồ Chí Minh.

    Ba, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc phải phối hợp ngặt nghèo với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc bản địa, dân người chủ dân ở miền Nam.

    Đường lối cách mạng của Đảng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là phối hợp ngặt nghèo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với cuộc cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân ở miền Nam là một sáng tạo rực rỡ mang tầm kế hoạch, không sao chép những cái đã có, mà là yếu tố vận dụng phép biện chứng của Mác vào Đk đặc trưng của cách mạng Việt Nam, có tăng trưởng trong thời đại toàn thế giới phân thành hai phe đối kháng. Miền Bắc sau khoản thời hạn hoàn thành xong cách mạng dân tộc bản địa dân người chủ dân, phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc có tăng trưởng chủ nghĩa xã hội mới giải phóng xã hội, giải phóng con người khỏi tàn tích của quyết sách thuộc địa, phong kiến tồn tại ngót 80 năm trên giang sơn ta một cách triệt để nhất. Có như vậy mới thực sự đưa nhân dân ta bước lên vũ đài chính trị với tư cách người làm chủ xã hội, làm chủ giang sơn, làm chủ bản thân. Miền Bắc giàu mạnh chẳng những là hậu phương vững chãi của cách mạng miền Nam, tăng cường sức mạnh cho cách mạng miền Nam, mà còn là một tấm gương thu hút, động viên nhân dân miền Nam phấn đấu, nhất quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai bán nước miền Nam. trái lại, trận chiến đấu của nhân dân miền Nam thu được những thắng lợi ngày càng lớn, sẽ đã có được tác dụng kiềm chế hành vi phiêu lưu mở rộng cuộc chiến tranh trên bộ của Mỹ, góp thêm phần bảo vệ miền Bắc, thúc đẩy và động viên nhân dân miền Bắc ra sức “từng người thao tác bằng hai” để xây dựng tiềm lực kinh tế tài chính, quốc phòng miền Bắc ngày càng vững mạnh, tăng cường chi viện cho cách mạng miền Nam. Sự tác động qua lại và tác động lẫn nhau trong quy trình tiến hành hai kế hoạch cách mạng ở mỗi miền nói lên ý nghĩa không tồn tại cuộc cách mạng nào tồn tại, tăng trưởng riêng lẻ trong một giang sơn nhân dân có chung một quân địch, chung một mục tiêu cách mạng. Cho nên, sự phối hợp thuần thục giữa hai cuộc cách mạng ở miền Bắc và miền Nam là lẽ tự nhiên, là tất yếu khách quan. Sự phối hợp ngặt nghèo này sẽ tạo thuận tiện cho nhân dân hai miền Bắc – Nam kề vai sát cánh cùng chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc và tăng trưởng chủ nghĩa xã hội. quản trị Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở, căn dặn cán bộ, đảng viên và nhân dân trong lúc xây dựng chủ nghĩa xã hội tránh khuynh hướng tách rời việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam, hoặc coi nặng cuộc cách mạng này mà xem nhẹ cuộc cách mạng kia.

    Thực hiện đường lối của Đảng, nhân dân ta ở hai miền nhiệt huyết thi đua lao động sản xuất và chiến đấu ngày càng sôi sục. Miền Bắc, trong lao động sản xuất đạt 5 tấn thóc trên một hécta gieo trồng, thì miền Nam giành thắng lợi vang dội ở Ấp Bắc, Đồng Xoài, Ba Gia, vượt mặt kế hoạch cuộc chiến tranh đặc biệt quan trọng của Mỹ. Bị thua ở miền Nam, đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh ra miền Bắc, rồi leo thang sang Campuchia và Lào. Sự phối hợp ngặt nghèo tiến hành đồng thời hai kế hoạch cách mạng ở hai miền đã đem lại cho nhân dân ta một sức mạnh cộng hưởng mới, đánh thắng địch trong mọi trường hợp. Nhân dân miền Bắc kiên cường đánh thắng trận cuộc chiến tranh không quân, thủy quân của Mỹ, giữ vững và tăng cường nhịp độ chi viện cho cách mạng miền Nam, Lào, Campuchia, thì quân, dân miền Nam Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, “đánh cho Mỹ cút”, tiến lên mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng trọn vẹn miền Nam, thu giang sơn về một mối. Đó là kết quả của sự việc phối hợp tiến hành hai kế hoạch cách mạng mà Đảng đã đưa ra.

    Bốn, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn vẹn. Đó là đường lối cuộc chiến tranh nhân dân tăng trưởng cao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mà nội dung của đường lối đó là: “Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, phát huy sức mạnh chiến đấu của dân tộc bản địa, tiến hành khởi nghĩa toàn dân và cuộc chiến tranh nhân dân để đánh thắng quân đội của chủ nghĩa đế quốc”6. Chiến tranh nhân dân của ta ngày này là trận cuộc chiến tranh toàn dân, toàn vẹn, trường kỳ, tự lực cánh sinh, thừa kế và phát huy cao độ kinh nghiệm tay nghề đánh giặc của tổ tiên và truyền thống cuội nguồn “toàn nước đánh giặc”, “trăm họ cùng là binh”, “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn vẹn, phải nắm vững tư tưởng, kế hoạch tiến công, phối hợp ngặt nghèo giữa tiến công quân sự chiến lược với đấu tranh chính trị, binh vận, đánh địch bằng hai lực lượng, ba thứ quân trên cả ba vùng kế hoạch. Chiến tranh nhân dân Việt Nam phải phục tùng đường lối chính trị của Đảng là giải phóng dân tộc bản địa, thống nhất Tổ quốc, đưa toàn nước tăng trưởng chủ nghĩa xã hội. Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, trước hết là cứu nước, cứu nhà, cứu mình, vì quyền lợi của nhân dân, vì độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và chủ nghĩa xã hội và cũng vì trách nhiệm so với những dân tộc bản địa bị áp bức trên toàn thế giới. Phương châm kế hoạch của cuộc chiến tranh nhân dân thời chống Mỹ là đánh lâu dài, “nhờ vào sức mình là chính, nhưng đồng thời toàn bộ chúng ta rất là tranh thủ sự đống ý, ủng hộ và viện trợ quốc tế… Đi đôi với đấu tranh quân sự chiến lược, toàn bộ chúng ta cần tăng cường đấu tranh chính trị và ngoại giao, góp thêm phần củng cố sự đoàn kết của phe xã hội chủ nghĩa, luôn luôn giữ thế dữ thế chủ động, nắm vững và nêu cao ngọn cờ độc lập và hòa bình”7.

    Ở miền Nam, toàn thể nhân dân tham gia đánh giặc Mỹ với tinh thần “toàn dân kháng chiến”, “toàn vẹn kháng chiến”, đánh bằng quân sự chiến lược, đánh bằng chính trị, đánh bằng binh vận, đánh bằng ngoại giao; một người cũng đánh, nhiều người cũng đánh, đánh địch ở bất kỳ nơi nào: rừng núi, đồng bằng, đô thị, ngày cũng như đêm, miễn là gặp địch, hoặc tìm đánh chúng trên cả ba vùng kế hoạch. Với khí thế tưng bừng của trận cuộc chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn vẹn, quân và dân ta ở miền Nam luôn giữ thế dữ thế chủ động, phối hợp đấu tranh quân sự chiến lược với đấu tranh chính trị, binh vận, tiến công địch trên khắp ba vùng kế hoạch, giành nhiều thắng lợi to lớn có ý nghĩa kế hoạch. Quân và dân miền Nam đã buộc địch vào thế lúng túng chống đỡ, từ dữ thế chủ động tiến công phải lùi vào phòng ngự bị động; ở đầu cuối phải chịu thua; Mỹ phải rút quân, ngụy quân, ngụy quyền bị diệt và tan rã.

    Ở miền Bắc, tiến hành đường lối cuộc chiến tranh nhân dân, trước hết ta triệu tập xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân: bộ đội nòng cốt, bộ đội địa phương, dân quân du kích, tự vệ và đội hậu bị hùng hậu. Bộ đội nòng cốt tăng trưởng thành ba quân chủng: Quân chủng Lục quân, Quân chủng Phòng không – Không quân, Quân chủng Hải quân và hàng trăm binh chủng như Rađa, Tên lửa, Không quân, Xe tăng và thiết giáp, v.v. được trang bị vũ khí, khí tài tân tiến và huấn luyện chính quy. Lực lượng này vừa chiến đấu bảo vệ miền Bắc, vừa bổ trợ update thường xuyên cho lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Khi đế quốc Mỹ gây cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân, thủy quân chống miền Bắc, thì trận cuộc chiến tranh nhân dân đất đối không và đất đối hải Ra đời. Đảng và Nhà nước chuyển hướng chỉ huy từ thời bình sang thời chiến. Lực lượng cán bộ, nhân viên cấp dưới những ngành được tổ chức triển khai, sắp xếp lại cho phù thích phù hợp với yêu cầu toàn nước có cuộc chiến tranh. Các cơ quan đảng, nhà nước, những nhà máy sản xuất, xí nghiệp, những cơ sở văn hóa truyền thống, xã hội được lệnh sơ tán, phân tán thoát khỏi những thành phố và những nơi địch đánh phá. Lực lượng vũ trang ba thứ quân sắp xếp những trận địa phòng không và phòng thủ bờ biển; tổ chức triển khai những chiến dịch phòng không nhân dân, đánh thắng lực lượng không quân và thủy quân Mỹ, bảo vệ vững chãi miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Cuối cùng quân và dân ta mở cuộc tiến công kế hoạch, đánh thẳng vào những địa thế căn cứ, những sở chỉ huy và cơ quan đầu não của ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn trong những thị xã, thành phố trên toàn miền Nam, tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch, kết thúc thắng lợi 21 năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Thắng lợi to lớn này chứng tỏ đường lối cuộc chiến tranh nhân dân do Đảng ta đưa ra là vô địch, không tồn tại một thế lực xâm lược nào trọn vẹn có thể chống đỡ nổi.

    Năm, phối hợp ngặt nghèo trách nhiệm giải phóng dân tộc bản địa với trách nhiệm quốc tế. Đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam nhằm mục tiêu lập địa thế căn cứ quân sự chiến lược, ngăn ngừa “chủ nghĩa cộng sản” lan tràn xuống Khu vực Đông Nam Á, răn đe trào lưu giải phóng dân tộc bản địa trên toàn thế giới; đồng thời thử nghiệm kế hoạch toàn thế giới của Mỹ, nếu thành công xuất sắc chúng sẽn mang vận dụng những nơi khác ở châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh. Cho nên sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam, muốn hay là không cũng dính đến trào lưu đấu tranh cách mạng của nhân dân toàn thế giới, mà trực tiếp là cách mạng Lào và Campuchia. Trong cuộc đấu tranh gay go này, cách mạng Việt Nam phải liên minh với cách mạng toàn thế giới, phải phối hợp ngặt nghèo giữa trách nhiệm giải phóng dân tộc bản địa với trách nhiệm quốc tế. quản trị Hồ Chí Minh đã giáo dục cho toàn dân, toàn quân Việt Nam là “Phải nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, giữ gìn và tăng trưởng tình hữu nghị với những nước xã hội chủ nghĩa bạn hữu; hết lòng ủng hộ trào lưu giải phóng của những dân tộc bản địa; đoàn kết với giai cấp công nhân và nhân dân toàn toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu, đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”1. Quan điểm cơ bản của Đảng ta và quản trị Hồ Chí Minh là trong quy trình kháng chiến, nhân dân ta phải luôn luôn làm tròn trách nhiệm quốc tế, tích cực góp thêm phần vào cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc, thực dân của nhân dân toàn thế giới. Trên tinh thần đó, quân và dân Việt Nam đã nỗ lực hết mình, vượt bao gian truân, quyết tử, ra sức đánh kiềm chế Mỹ và phe Mỹ, từng bước đánh thắng chúng trên mặt trận Việt Nam, không để cuộc chiến tranh lan tỏa thoáng đãng ra, làm tác động đến môi trường sống đời thường hòa bình, xây dựng giang sơn của những dân tộc bản địa trên toàn thế giới. Nhân dân ta đã tiến hành thành công xuất sắc phương pháp cách mạng thắng địch từng bước, đánh lui, đánh đổ từng bộ phận địch, làm cho Mỹ suy yếu, kéo Mỹ xuống thang cuộc chiến tranh và giam chân lực lượng Mỹ trên mặt trận Việt Nam, tạo thuận tiện cho những nước xã hội chủ nghĩa củng cố hòa bình, tăng trưởng kinh tế tài chính. Đối với nhân dân Lào và Campuchia, nhân dân Việt Nam giúp sức hết mình cả về vật chất, tinh thần, sát cánh cùng bạn chiến đấu chống quân địch chung là đế quốc Mỹ và bọn tay sai của mỗi nước. Đảng, Nhà nước và nhân dân, quân đội ta coi việc hỗ trợ cho bạn là giúp mình, là trách nhiệm không được thoái thác. Nhờ tiến hành tốt đường lối phối hợp trách nhiệm giải phóng dân tộc bản địa với trách nhiệm quốc tế, ta đã tranh thủ được sự giúp sức về mọi mặt của nhân dân toàn thế giới so với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam. Mặt trận nhân dân toàn thế giới đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ Ra đời, góp thêm phần quan trọng tăng cường thế và lực cho cách mạng Việt Nam. Năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi trọn vẹn, Đảng ta định hình và nhận định: thắng lợi của Việt Nam cũng là thắng lợi của những lực lượng hòa bình, độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.

    *
    * *

    Đường lối cách mạng và kháng chiến của Đảng và quản trị Hồ Chí Minh đã thừa kế xuất sắc truyền thống cuội nguồn yêu nước và phát huy lên tầm cao mới, biết lấy ít địch nhiều, biết lấy yếu thắng mạnh, lấy nhu thắng cương, biết thắng địch từng bước, đánh lui địch từng bộ phận, tiến lên vượt mặt trọn vẹn quân địch bằng một cuộc tổng tiến công thần tốc. Đường lối cách mạng và kháng chiến của Đảng thấm nhuần thâm thúy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mang đậm tính giai cấp, tính nhân dân, đậm đà truyền thống dân tộc bản địa. Do vậy, đường lối cách mạng và kháng chiến của Đảng luôn luôn giữ vững tinh thần độc lập tự chủ, đúng đắn và sáng tạo. Song, “kinh nghiệm tay nghề đã cho toàn bộ chúng ta biết trào lưu cách mạng có khi dẫm chân tại chỗ, thậm chí còn thất bại nữa, không phải vì thiếu phương hướng, tiềm năng rõ ràng, mà đa phần vì thiếu phương pháp cách mạng thích hợp”, “Phương pháp cách mạng là làm thế nào thắng địch một cách có lợi nhất, đưa cách mạng tới đích nhanh nhất có thể”8. Cái giỏi của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản trị Hồ Chí Minh là bằng bộ óc thiên tài của Người lãnh đạo cách mạng và kháng chiến, chẳng những đưa ra được đường lối cách mạng và kháng chiến, đường lối chính trị và đường lối quân sự chiến lược đúng đắn, độc lập, tự chủ, mà còn sáng tạo ra phương pháp cách mạng đúng, thích thích phù hợp với từng thời kỳ kháng chiến. Phương pháp cách mạng này đã dẫn dắt quân và dân ta tiến hành thắng lợi đường lối của Đảng mà Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam đã tổng kết: “Phương pháp cách mạng ở miền Nam, những yếu tố có tính quy luật của cuộc chiến tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước là: Sử dụng đấm đá bạo lực cách mạng với hai lực lượng, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa tăng trưởng thành cuộc chiến tranh cách mạng; phối hợp đấu tranh quân sự chiến lược với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; phối hợp khởi nghĩa của quần chúng với cuộc chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng kế hoạch: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự chiến lược, chính trị, binh vận; phối hợp ba thứ quân; phối hợp cuộc chiến tranh du kích với cuộc chiến tranh chính quy, phối hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; tiến hành làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm kế hoạch đánh lâu dài đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những trận tiến công kế hoạch làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh, tiến lên tiến hành tổng tiến công và nổi dậy tiêu diệt quân địch để giành thắng lợi ở đầu cuối”9.

    Đại tá NGUYỄN VĂN MINH

    Nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử kháng chiến chống Mỹ,

    Viện Lịch sử quân sự chiến lược Việt Nam.

    Trích trong cuốn “Đảng Cộng sản Việt Nam – 80 năm xây dựng

    và tăng trưởng”, Nxb. Chính trị vương quốc, Tp Hà Nội Thủ Đô, 2010.

    *****

    1, 2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.20,
    tr. 82, 84.

    4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.21, tr.512.

    5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr.171.

    6. Võ Nguyên Giáp: Bài giảng về đường lối quân sự chiến lược của Đảng (lưu hành nội bộ), Viện Khoa học quân sự chiến lược, tr.92-93.

    7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.26, tr.640-641.

    8 . Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.25, tr.107.

    9. Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới, Sđd, tr.34.

    Bình luậnGửi đi Làm lại

    Reply
    4
    0
    Chia sẻ

    Review Share Link Tải Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975 ?

    – Một số Keyword tìm kiếm nhiều : ” đoạn Clip hướng dẫn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975 tiên tiến và phát triển nhất , Share Link Download Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975 “.

    Thảo Luận vướng mắc về Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975

    Quý khách trọn vẹn có thể để lại Comments nếu gặp yếu tố chưa hiểu nhé.
    #Đường #lối #cách #mạng #của #Đảng #Cộng #sản #Việt #Nam #giai #đoạn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam quá trình 1954 1975