Mục lục bài viết

Mẹo về Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung Mới Nhất

Update: 2022-03-27 00:56:09,Quý khách Cần tương hỗ về Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung. You trọn vẹn có thể lại Thảo luận ở phía dưới để Admin đc lý giải rõ ràng hơn.

583

(Toquoc)- Phác thảo về cái ngông

Khi người ta phác hoạ một Nguyễn Tuân thì phải là cái mũi khoằm, Xuân Diệu là mái tóc bồng bềnh, Kim Lân là cái má hóp thì nhìn vào bức vẽ ấy ta mới gọi ra được Vang bóng thuở nào, Biển, hay Vợ nhặt… vậy còn chàng trai Đồng Đức Bốn, hay nhà thơ Nguyễn Duy… thì phải vẽ thế nào (?).

Không ai phủ nhận một điều rằng những nhà văn có tài năng dù minh bạch thể hiện hay ngấm ngầm tuyên ngôn đều phải có một chút ít tự hào và vững tin ở ngòi bút của tớ. Bởi nếu muốn ra đi được anh phải ghi nhận mình có lực thật sự hay là không và tin ở tay lái của tớ như người thuỷ thủ ra khơi. Cái ngông của nhà văn nào ở đầu cuối cũng rất được họ phát biểu thành tuyên ngôn. Nguyễn Công Trứ là: Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo. Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu: Bởi ông hay quá, ông không đỗ/ Không đỗ, ông càng tốt bộ ngông. Dù kẻ thế này, người thế khác thì suy cho cùng họ đều là vì “sinh bất phùng thời” và muốn tự thể hiện cái tư chất của tớ. Dù đôi lúc họ có hơi ngậm ngùi về thân phận của tớ nhưng vẫn là cái ngông của bậc đại nhân. Bởi thế dù có nhập vào “cây thông đứng giữa trời mà reo” – một biến thể của người quân tử, hay cách nói ngạo nghễ của Tản Đà thì đều là tự mình nói lên mình. Trong khi đó ở Đồng Đức Bốn, cái chất ngông của ông đã làm dư luận xôn xao từ lâu nhưng để tóm gọn thì không hề đơn thuần và giản dị. Rất nhiều người đã lầm cái ngông ấy với cái “tự ái vặt” trong thơ ông. Cái ngông cũng là một dung hoà đối cực hưng phấn và ức chế của tư tưởng nhưng sang trọng và đàng hoàng hơn nhiều. Đã có lần “suýt nữa” ông nói về cái ngông ấy: Hiểu tôi là ngọn núi cao/ Thương tôi có một ngôi sao 5 cánh cuối trời. Rất may đó chỉ là hiểu và thương chứ không phải là hiểu và khen hay nể sợ, đáng gờm gì đó… thì toàn bộ chúng ta lại sở hữu thêm một sự xoàng xĩnh nữa rồi. Một con người luôn ám ảnh về cái tôi mồ côi của tớ như vậy lúc nào thì cũng thể hiện rất rất kín kẽ và tinh xảo trong sự phát ngôn của tớ. Thiết nghĩ người thơ ồn ào mà sâu lắng ấy không phát biểu thô thiển như vậy. Kẻ lĩnh hội được lục bát không thể là phường phàm phu, tục tử được. Đó phải là: Người đời không hái được ta/ Thì em đừng mộng ta là tình nhân. Kẻ đó phải là ai để trọn vẹn có thể lọt cả “lưới đời” bủa vây và lưới tình mơn trớn (ải mỹ nhân). Hoặc ta lại thấy bóng hình ấy trong bến bờ thơ mộng: thảo dân. “Xử” và “tàng” thực ra vẫn là một dạng tồn tại đặc biệt quan trọng của cái tôi hành đạo. Kể đến hơn cả bậc tiền nhân Đào Tiềm về ở ẩn từ rất sớm thì vẫn tạo ra cả một khối mạng lưới hệ thống hình tượng để soi chiếu được cho phép hành xử của những nhà Nho sau này từ xuân, lan, thu, cúc. Chỉ có những nhà thơ lục bát tân tiến này thì về với dân mới là dân thật. Bởi: dân là toàn bích, dân là toàn tri chăng. Bởi thế mới đã có được hai con mắt của thảo dân, hai con mắt có con ngươi vàng nhìn vẻ đẹp lung linh mà bản mộc trong lúc mà người ta vẫn mơ mơ hồ hồ. Thi nhân truyền thống cuội nguồn ngông ngạo muốn người đời nhìn ra mình, còn họ lại nhìn ra đời sống: Khói thuốc lá đường bên trời/ Rượu trong cất ở mắt người sang nhau – (Đồng Đức Bốn), Xin nghe anh nói cực nghiêm/ Linh hồn cát bụi ở miền trong xanh – (Nguyễn Duy).

Nếu như cái ngông của những bậc tiền nhân là hiện thân của con người quân tử được ẩn, được soi chiếu trong những hình tượng của Nho giáo thì cái ngông của những nhà thơ này phải tìm cho mình một thứ gì đó để mà cư ngụ, để tránh tình trạng nói nhiều để không trở thành dở ông, dở thằng ngay giữa thi đàn. Vậy là họ phải tìm cho mình những hình tượng riêng: Nguyễn Duy nhận là thảo dân (Chu Văn Sơn) nhưng là thảo dân tân tiến. Thảo dân tài năng và nhạy cảm với thế sự. Phạm Công Trứ là cỏ may nhưng là cỏ may mọc trên hoa gấm thị thành, không đến nỗi thành tinh nhưng lắng nghe được mọi chuyện. Còn với Bốn, ông lúng túng để tìm một hoá thân nhưng ở đầu cuối thì phải là lục bát, nhưng đó là một lục bát tân tiến. Lục bát có mắt thần nhìn ra lẽ đời, lắng tai nghe thấu chuyện đời. Lâu nay văn đàn đã vắng cái ngất ngưởng của thi nhân, nhiều người ngỡ là không hề cái ngông nữa hoặc thi thoảng nghe thấy vài tiếng hô cho đó là cái ngông không bằng ngày trước. Thế nhưng họ đã quên rằng cái “bụi” của Duy, cái “gai” của Bốn, cái dằm dặm của “cỏ may” mọc trên nhung lụa của Trứ chẳng phải là cái ngông mới sao.

Thi nhân xưa lấy thơ viết về cái ngông, thi nhân nay ngông vì có thơ, có thơ là có báu vật, có thơ để nhận diện đời sống. Có thơ để được nói ngọng, để hiểu thấu lẽ đời sống. Phải chăng họ tồn tại bằng chính lương tri của tớ khi cái lương tri ấy và thơ nhập vào một trong những. Chứ họ không hề coi thơ là phương tiện đi lại nữa. Cái ngông đã nhập vào cái hoá thân của tớ. Có thể diễn giải cái ngông ấy thế này: Mình ngông mình được làm mình. Riêng với Bốn, tôi tồn tại bởi tôi là lục bát. Cái ngông của Bốn không phải từ quan phương tìm tới dân gian để tạo ra một phương thức tồn tại đặc biệt quan trọng mà ông và những nhà thơ cùng thời từ dân gian sở hữu fan hâm mộ bằng cái vạn đại, vô danh nhưng vô giá của tớ. Đứng từ cỏ dại, bụi bặm bụi bờ để luận ra, nhìn ra toàn thế giới: Địa cầu mải miết suy tư/ cho râu tóc cỏ rối bù trong đêm (Nguyễn Duy). Từ dân dã họ tiến vào sở hữu TT, tạo ra chất dân gian tân tiến trải qua việc dùng hình ảnh, tích dân gian, từ ngữ, cách ví von làm nghiêm trọng hoá một số trong những yếu tố nhưng vẫn giữ được vẻ bông phèng, họ luôn nhắc nhở với toàn bộ chúng ta rằng họ vẫn đang phát ngôn những lời ấy từ cửa miệng bông phèng của tớ. Với Nguyễn Duy đó là những: ngọng nghẹo, tỉnh tình tinh, xỉnh xình xinh… để nhắc lại tư thế của tớ: Ngứa nghề hát ngọng nghẹo thôi; Đàn kêu tinh tỉnh tình tinh (Xẩm ngọng); Phàm trần bớt chút lung linh/ những em bớt xỉnh xình xinh mấy phần (Kiêng); Anh nhét tấm huân chương vào hộc tủ/ dửng dừng dưng với mọi vui mừng (Từng trải). Với Phạm Công Trứ: là cái tôi cù lần và em đa điệu xen vào những nét “nghiêm trọng ấy”. Người ta “duy vật” khắp nơi/ Em thì “duy lý”, còn tôi “duy tình” (Duy). Còn với Đồng Đức Bốn, ông không tồn tại được cái cười ngạo nghễ mà vẫn thực hiện như không tồn tại gì xẩy ra theo phong cách tỉnh tình tinh như hai tác giả kia. Ông không phải hình ảnh của thi nhân ôm cây đàn mà là cây đàn làm ra thi nhân. Nếu có những “trầm trọng hoá” cũng rất được ông lý giải bằng một lối đi quen thuộc theo phong cách ca dao, thành ngữ: Chuông chùa tiếng đục tiếng trong/ Thảo nào cát bụi long đong thân cò. Với Bốn, ông không dùng thuật ngữ tân tiến để nêu ra những yếu tố về yếu tố ngang trái, eo le của đời sống ở phần đề (câu 6) và đồng thời lại thuyết (ở câu 8) cũng bằng những phương pháp quen thuộc theo phong cách như vậy: Trăm năm tưởng gỗ hoá trầm/ Nào ngờ lại đá lặng câm đứng chờ; Trời xanh mây cũng đầy rêu/ Trên hoa áo những vương triều mủn ra; Chân lý không là đường cong/ Mà sao cứ phải lội vòng thế kia; Muốn tìm tới với ban mai/ Phải qua những trốn đền đài hư vô… Nếu toàn bộ chúng ta bỏ qua những cụm từ cố định và thắt chặt mang phong vị dân gian như: gỗ hoá trầm, lội vòng… tuy đã mang ý nghĩa tân tiến nhưng phần nào đã mòn và cũ thì những: tưởng, nào ngờ, cũng, mủn ra, muốn tìm, phải qua… là những từ ngữ gợi sự xác lập chứng minh và khẳng định và quyết liệt. Thơ Bốn không giầu chữ, ông không biết rộng và đi nhiều theo cái kiểu cái tâm thảo dân nhưng cái tầm nhiều chữ để nói hay và nói sắc về mọi thứ. Trong thơ ông chỉ là người “lẩy” lục bát cục mịch, ít nói nhưng luôn nhận rõ trắng – đen, trân – nguỵ. Chính điều này tạo ra một nghịch lý cho những người dân đọc khi tiếp nhận đó là: Thấy thơ Bốn rất ít từ mới, rất mòn và cũ nhưng lại đầy ắp chất dân gian tân tiến. Cái ngông cũ là cái vỏ che đậy cái yếu ớt, cái ngông mới mượn cái vỏ nhẹ nhàng, mỏng dính mảnh, lông bông, lang bang thiếu qui chuẩn để lấy ra cái lập luận kiên định, chắc như đinh đóng cột của tớ.

Điệu ghẹo với chất ngông

Chất ngông thể hiện bằng giọng điệu:  Với những nhà thơ quá trình trước, chất ngông thường được thể hiện trải qua hình tượng (Nguyễn Công Trứ qua hình tượng cây thông, bậc quân tử, đại nhân. Tản Đà qua hình tượng núi Tản, sông Đà, kẻ hầu văn nhà trời…). Với những nhà thơ lục bát mới chất ngông được thể hiện qua giọng diệu là đa phần: Cùng là là một kiếp thi nhân/ Kẻ men lục bát người trần tự do; Trên đò những cụ ông cụ bà tụng kinh/ Chúng mình trẻ quá chúng mình “tụng” nhau (Phạm Công Trứ). Với Nguyễn Duy: Đừng chê anh khoái bụi đời/ bụi dân số đấy bụi người đấy em; Ai sinh ra thói tình tang/ Để ai hoá gió lang bang quên nhà. Với những nhà thơ trung đại, chất ngông ấy hầu hết được thể hiện trong lục bát điệu ngâm và những tác giả sau này là lục bát điệu nói với những điệu than. Nhưng đến quá trình này, cùng với việc thay đổi thi pháp của văn học tân tiến (trình làng từ trên đầu thế kỉ XX) chất ngông có thêm điệu ghẹo. Trong cuộc giao duyên chữ nghĩa ấy bản lĩnh người tình được thể hiện chất ngang tàng trong sự đắm đuối, lại vừa thể uyển chuyển, linh hoạt trong những thử thách của tình yêu: Biết rồi !… vai cứ kề vai/ Kệ cho mấp mé cả hai mạn xuồng… (Nguyễn Duy). Cũng với Xu thế ấy Đồng Đức Bốn dường như cũng tìm cho mình một cách thể hiện giọng điệu của tớ một chất ngông được hoà quyện trong điệu ghẹo mới: Cánh hoa sắc một lưỡi dao/ Vì yêu tôi cứ cầm vào như không; Khổ mà tôi vẫn muốn yêu/ Đau mà tôi chẳng đặt điều cho ai; Trẻ thì đất động trời sôi/ Già thì mơn mởn cái hồi đương tơ; Nói gì thì kệ người ta/ Không em phố chẳng còn là một phố đâu… Đôi lúc còn thêm vào đó cả mầu sắc lịch sử một thời nữa: Nếu không trả được bằng tiền/ Tôi lấy trăng liềm làm bím tóc cho; Rút trăng buộc lại con đò/ Thu lời em hát chỉ cho riêng mình.

“Ngông” là một bản lĩnh nên phải có trong thơ, “ngông” trong sáng tạo đó là niềm tin ở nội lực, ở kĩ năng thấu thị, nhận diện sự vật. Bởi thế không thật lời khi nói thơ còn “ngông” tức là còn những điều lí thú để ta cảm nhận.

Phương Mai

Đề bài: Phân tích cái ngông của nhà thơ Tản Đà trong bài thơ Hầu TrờiBài làm 1Tản Đà là một trong những thi sĩ đi đầu cho thơ  Việt Nam hiện đại. ông là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi.Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí mới cho nền văn học Việt  Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của mình một cách hết sức độc đáo và mới  mẻ. Và “Hầu Trời” là một trong những bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.Như Hoài Thanh đã nói “Tiên sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà là người đã đặt được  dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện đại, là người “dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kỳ  đương sắp sửa” (Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là  Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và đã đeo “túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại khá nhiều tác  phẩm cho đời. Trong đó đáng kể là “Hầu Trời” được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài  thơ đã thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc thơ.Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết.  Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết  phải thể  hiện được cái riêng có giá trị  thẩm mĩ cao, có khả  năng đóng góp tích cực cho  nền văn học chung.Tản Đà­nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ  để  làm  nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã  thể  hiện trong “Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không phải chỉ  định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho  mình những phong cách riêng, khác người nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.Chất ngông thương được thể hiện bởi những nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và  cái tình. Với cái tài đó, họ  mang ra phục vụ  cho đời nhưng cũng là để  “đóng dấu” hình  ảnh của mình với thời gian. Họ  có thể  ngông bởi họ  có tài, họ  có cái để  hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã  là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong “Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân  Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.”Đêm qua chẳng biết có hay khôngChẳng phải thảng thốt không mơ mòngThật hồn! Thật phách! Thật than thểThật được lên tiên sướng lạ lùng!”.Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút  cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như  thật, có lẽ  cái tôi độc đáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của  nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ  biểu hiện mạnh mẽ  qua bài Hầu Trời. Đã có dịp  được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của bản thân:”Dạ bẩm lạy Trời con xin đọcĐọc hết văn vần sang văn xuôiHết văn thuyết lí lại văn chơiĐương cơn đắc ý đọc đã thíchChè Trời nhấp giọng càng tốt hơn.”Tác giả  đọc thơ  rất tự  tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông. Sẵn tiện  nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:”Bẩm con không dám man cửa TrờiNhững áng văn con in cả rồiHai quyển Khối tình văn thuyết líHai Khối tình con là văn chơiThần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyếtĐài gương, Lên sáu văn vị đờiQuyển Đàn bà Tàu lối văn dịchĐến quyển Lên tám nay là mườiNhờ Trời văn con còn bán đượcChửa biết con in ra mấy mươi?”Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà những nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng.  Họ không dám nói đến cái hay, cái “tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng  phải tán thưởng:”Văn dài hơi tốt ran cung mây!Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡiHằng Nga, Chức Nữ chau đôi màySong Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứngĐọc xong một bài cùng vỗ tay.””Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!Văn trần được thế chắc có ítNhời văn chuốt đẹp như sao băng!Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!Êm như gió thoảng, tinh như sương!Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự  tin sáng tác, chuyển tải những tư  tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như  với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ  của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau những câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức  tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ  đã ý thức được sự cần thiết phải  chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:”Nhờ Trời văn con còn bán được””Vốn liếng còn một bụng văn đó”Thật ngang tang khi thi sĩ muốn “gánh văn” lên Trời để bán.”Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:­”Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn  của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông­ một tài năng thực thụ  của  trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.Qua bài thơ  “Hầu Trời” không dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với cuộc đời:”Văn chương hạ giới rẻ như bèoKiếm được đồng lãi thực rất khóKiếm được thời ít tiêu thời nhiềuLàm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.”Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư  tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ  ông. Và lời Trời khen hắn là sự  thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà  thơ.Để  Trời hiểu thơ, khen văn thơ  tuyệt, Tản Đà liền đó “tâu trình” rõ ràng thân thế  của  mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:”Dạ bẩm lạy Trời con xin thưaCon tên Khắc Hiếu họ là NguyễnQuê ở Á châu về Địa CầuSông Đà núi Tản nước Nam Việt”.Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại  còn nói rõ bản quán, châu lục, trên hành tinh. Qua đó ông thể  hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên­ tên thật  chứ không phải tự hay hiệu­ mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có  một giá trị  không thể  phủ  nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả  ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước  chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của mình.Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại  khẳng định rất “ngông”, của kẻ vốn đã “ngông” khi nhận mình là “trích tiên” bị đày xuống  hạ giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận “khác thường của mình”.Sự  khác thường đặc biệt này còn nằm  ở  việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của nhân loại”, “Trời rằng không phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc “thiên  lương” của nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại được thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông  ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả  xã  hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang bị mai một của  con người:”Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớDám xin không phụ Trời trông mong”Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi.  Nó đối lập với cái xã hội bất công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.Cuối cùng nhà thơ  vẫn muốn khẳng định, tự  khen thơ  mình. Thơ  thi nhân chẳng những  đẹp mà còn  ẩn chứa những ý niệm cao siêu về  cuộc đời, về  thiên lương, nhân sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân­ thiện­ mỹ. Thoát ra khỏi quan niệm “thi dĩ ngôn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.Kế  thừa nét ngông của truyền thống, tuy nhiên trong sự  ngông của Tản Đà, người ta không  thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối  lại với đời như  Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể  hiện riêng của người tôn thờ  cái đẹp như  Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về  sự  đổi thay, say để  mộng, mộng để  ngông với người đời. Nhưng có thể  thấy rằng, họ  gặp nhau  ở  một điểm cơ  bản mà nếu như  thiếu nó thì sẽ  không thể  “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong  lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.Bài thơ “Hầu Trời” đã kết tinh cái tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội  dung, những nét độc đáo và mới mẻ  còn làm nên cái tôi trong nghệ  thuật. Có lẽ  “Hầu Trời” có vẻ  quá dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ  giàu yếu tố  tự  sự. Hơn thế,  nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ cho phép nhà thơ  thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về  hình thức để  tự  do vẫy  vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.Bên cạnh đó, “Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ, những khổ có độ dài khác  nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt  ra khỏi quy pham nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là sự dung hòa nhiều yếu tố  khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa  và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao  sáng với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.Bài làm 2Tản Đà (1889 – 1939) Tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, Quê ông  ở  Sơn Tây thuộc Ba Vì, Hà Nội ngày nay. Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ  mới và thơ  cũ, là người đặt nền móng cho thơ  mới. Những đánh giá ấy đã xác  nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có  những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ  có rất nhiều điểm mới ra đời trong hoàn cảnh khuynh hướng lãng mạn khá đậm nét  trong văn chương thời đại, xã hội thực dân nửa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy cảnh  ngang trái, xót đau.Trong sáng tác văn học, không phải ai cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết.  Cái tôi gắn liền với cá tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết  phải thể  hiện được cái riêng có giá trị  thẩm mĩ cao, có khả  năng đóng góp tích cực cho  nền văn học chung. Tản Đà­nhắc đến thi nhân là nhắc đến “xê dịch, ngông và đa tình”. Ba  yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ  đã thể  hiện trong Hầu Trời là một cái tôi ngông rất lạ. “Ngông” không  phải chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên khả  năng mình có, nghĩa là chỉ  những người tài năng, tự  tin bởi cái tài  của mình, tự  tin để  khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận.  Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người nhưng để  lại những  ấn  tượng sâu đậm. Chất ngông thương được thể hiện bởi những nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và  cái tình. Với cái tài đó, họ  mang ra phục vụ  cho đời nhưng cũng là để  “đóng dấu” hình ảnh của mình với thời gian. Họ  có thể  ngông bởi họ  có tài, họ  có cái để  hãnh diện, để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã  là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và cái ngông ấy trong Hầu Trời đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở chỗ ấy.“Đêm qua chẳng biết có hay khôngChẳng phải thảng thốt không mơ mòngThật hồn! Thật phách! Thật than thểThật được lên tiên sướng lạ lùng!”.Điệp từ  “thật” nhấn mạnh cảm xúc của thi nhân, những câu cảm thán bộc lộ  cảm xúc bàng hoàng, câu khẳng định dường như  lật lại vấn đề  mơ  mà như  tỉnh,hư  mà như  thực. Cách giới thiệu  ấy đã gợi cho người đọc về  một tứ  thơ  lãng mạn nhưng cảm xúc là có thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái hồn cốt trong cõi mộng, mộng mà như tỉnh, hư mà như thật. Cách vào chuyện đầy độc đáo và có duyên ấy làm cho câu chuyện  mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn.Rồi nhà thơ kể về hoàn cảnh  bắt đầu câu chuyện đầy li kì của mình:Nguyên lúc canh ba nằm một mìnhVắt chân dưới bóng ngọn đèn xanhNằm buồn ngồi dậy đun nước uốngUống xong ấm nước nằm ngâm vănVậy là cái không gian mở đầu đã rất đầy đủ, thời gian – canh ba; không gian – đêm khuya;  hoạt động – nằm một mình, uống nước ngâm thơ, rất đầy đủ để đọc giả tưởng tượng ra một buổi đêm hết sức vắng lặng, quạnh quẽ. Đó là cái nền hấp dẫn để bắt đầu một câu  chuyện lên tiên của nhà thơ. Vẫn những lời kể  rất tự  nhiên, nôm na. Cái lý do lên trời  cũng rất độc đáo mà hợp lý.Trời nghe hạ giới ai ngâm ngaTiếng ngân vang cả sông Ngân hàLàm trời mất ngủ trời đương mắngCó hay lên đọc trời nghe quaMượn lời của nhà trời để nói về tiếng ngâm của mình “vang cả sông Ngân hà”. Ở đây ta đã thấy rõ cái tôi cá nhân đầy chất lãng mạn bay bổng pha chút ngông trong tác giả. Điều này càng rõ ràng khi thi nhân đọc thơ và nói về những tác phẩm của mình. Đọc hết văn vần lại văn xuôiHết văn thuyết lý lại văn chơiNhà thơ đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc. Ông cũng kể tường tận về những  tác phẩm của mình:Hai quyển khối tình văn lý thuyếtHai khối tình còn là văn chơiThần tiên giấc mộng văn tiểu thuyếtGiọng đọc của Tản Đà rất đa dạng, hóm hỉnh và ngông nghênh. Đoạn thơ đã cho thấy ông rất ý thức về tài năng văn thơ của mình, cũng là người táo bạo dám đường hoàng bộc lộ cái tôi cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời để thể hiện tài năng. Đây cũng là khát  khao chân thành trong tâm hồn Tản Đà.Sự độc đáo ở đoạn thơ còn thơ còn thể  hiện ở việc thi nhân tự  khen thơ mình nhưng lại  để cho trời và chư tiên khen ngợi:Chư tiên ao ước tranh nhau dặn”Anh gánh lên đây bán chợ trời”Trời lại phê cho văn thật tuyệtVăn trần được thế chắc có ítNgười ở phương nào ta chưa biết.Trời khen rất nhiệt thành: “văn thật tuyệt, văn chuốt như  sao băng…” chư  tiên thì xúc động, hâm mộ và tán thưởng: “tâm nở dạ, cơ lè lưỡi..” Đây là một lối ngông rất đáng yêu  của thi sĩ. Cả  đoạn thơ  đậm chất lãng mạn. Đồng thời  ở  đây ta cũng thấy rõ tư  tưởng  thoát li của nhà thơ  – muốn trốn thoát khỏi chốn trần tục, văn thơ  của ông chỉ  xứng cho người trời nghe, người đời không hiểu, không cảm hết được giá trị, tầm vóc của nó.Ở đoạn thơ tiếp theo nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình gắn liền với tên  tuổi thật của mình:Con tên Khắc Hiếu họ NguyễnQuê ở Á châu về địa cầuSông Đà núi Tản nước Việt NamTrong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cách để thể hiện cái  tôi của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài, biết trân trọng khẳng định tài năng của mình. Trong thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ  quyền, tự  giới thiệu như  là cách thể  hiện sự  tự  hào, tự  tôn dân tộc. Nhà thơ  còn khẳng định phong cách ngông của mình một cách hóm hỉnh:”Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc HiếuĐày xuống hạ giới vì tội ngông”Trong cuộc đối thoại với tưởng tượng với trời nhà thơ  còn khẳng định trách nhiệm và  nghĩa vụ cao cả của mình là lo việc “thiên lương”. Phải chăng đó cũng là lời khẳng định  về  thiên chức của những người cầm bút. Đây là tình huống được tác giả  xây dựng đầy hợp lý để có cơ hội giãi bày về cái nghề của mình.Thi nhân kể về cuộc sống – đó là một  cuộc sống nghèo khổ, túng thiếu, thân phận nhà văn bị  rẻ  rúng,  ở  trần gian không tìm  được tri âm phải lên cõi trần để thỏa nguyện nỗi lòng:Bẩm trời cảnh con thực nghèo khóTrần gian thước đất cũng không cóVăn chương hạ giới rẻ như bèoKiếm được đồng lãi thực rất khóNhà thơ Tản Đà được coi là người đặt nền móng cho thơ hiện đại không chỉ bởi hơi thở mới mẻ trong thơ ông, cái tôi hiên ngang trong những áng văn thơ của ông mà còn bởi ông là  người đầu tiên “mang văn chương ra bán phố phường”. Hầu TrờiQua đoạn thơ   ấy ta thấy hiện lên một bức tranh đầy chân thực và cảm động về  cuộc  sống của người nghệ sĩ trong xã hội bấy giờ, một cuộc sống cơ cực, không tấc đất cắm  dùi, thân phận bị  rẻ  rúng, làm chẳng đủ  ăn… Cả  đoạn văn là cảm hứng hiện thực bao  trùm.Ở đây nhà thơ cũng ý thức rất rõ về trách nhiệm của mình là truyền bá thiên lương. Điều đó giúp ta chứng tỏ  Tản Đà lãng mạn chứ  không thoát ly hoàn toàn. Ông vẫn ý thức về trách nhiệm, nghĩa vụ với đời là góp phần đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Đó là sự khẳng định mình trước cuộc đời, khao khát được gánh vác việc đời.Với Hầu trời, Tản Đà đã đem lại cho văn học Việt nam đầu thế kỉ  một luồng không khí mới. Qua một câu chuyện tưởng tượng  đầy hào hứng. Ta  đã thấy một cái tôi ngông nghênh, hào hoa và cái tôi cô đơn bế tắc trước thời vận. Tản Đà cũng đã tự tin khẳng định tài năng nói lên quan điểm văn chương thực hiện thiên lương của mình. Viết văn hay làm cho cuộc đời tốt đẹp hơn là sứ  mạng mà trời đã giao cho nhà thơ. Với cách kể  chuyện  hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc, ngôn ngữ thơ tinh tế, gợi cảm, cảm xúc tự nhiên  phóng túng trong thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do đã cho ta một tuyệt tác thi ca kì diệu.Bài làm 3Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu (1889 – 1939), xuất thân trong một gia đình khoa  bảng ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây, nay là huyện Ba Vì, Hà Nội, một  vùng có khung cảnh thiên nhiên sơn thuỷ hữu tình. Cha là cử nhân Hán học Nguyễn Danh Kế, làm quan tới chức Án sát. Mẹ  là bà Phủ  Ba cũng thông thạo chữ  nghĩa và thích văn chương thi phú. Thi sĩ có hai câu thơ rất hay giới thiệu về vẻ đẹp của quê hương mình:Nước gợn sông Đà con cá nhảy,Mây trùm non Tản cái diều bay.Sông Đà, núi Tản và mây trắng xứ Đoài đã gợi ý cho nhà thơ lấy bút danh:Tản Viên ở trước mặt,Đà Giang bên cạnh nhà.Tản Đà.Bút danh ấy đã được ghi nhận là mốc son trong lịch sử phát triển của thơ ca tiếng Việt và sống mãi trong lòng người yêu thơ  suốt bảy thập kỉ qua. Tản Đà có những đóng góp rất quan trọng cho nền văn học nước nhà. Các sáng tác tiêu biểu của ông là: Khối tình con I,  II, III (thơ) ;Giấc mộng con I, II (truyện phiêu lưu viễn tưởng), Còn chơi (thơ  và văn xuôi),…Tản Đà là người của hai thế kỉ. Thuở nhỏ, ông cũng theo đuổi con đường cử nghiệp của cha nhưng thi Hương mấy lần không đậu. Thời  ấy, Hán học cũng đã suy tàn nên ông chuyển qua học chữ quốc ngữ rồi sáng tác thơ, viết văn, làm báo. Ông chua chát tự  nhận xét: Chữ  nghĩa Tây Tàu trót dở  dang, Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng. Là nhà Nho nhưng Tản Đà không chịu khép mình trong khuôn khổ Nho giáo mà lại có những phá cách rất táo bạo. Tính chất giao thời thể  hiện rất rõ trong cuộc đời, lối sống, học vấn và sự nghiệp văn chương của Tản Đà.Trong sáng tác, tuy Tản Đà vẫn thường sử dụng những thể loại cổ điển nhưng cảm hứng  thì lại rất mới mẻ. Thơ Tản Đà thể hiện “cái tôi” lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái. Bởi vậy nên nhà nghiên cứu phê bình văn học Hoài  Thanh đã trân trọng xếp Tản Đà ở vị trí đầu tiên trong cuốn Thi nhân Việt Nam.Bài Hầu Trời in trong tập Còn chơi, xuất bản năm 1921, nằm trong mạch cảm hứng lãng mạn đậm chất ngông của thi sĩ Tản Đà – một vị trích tiên như tác giả tự nhận, vì đánh vỡ chén ngọc mà bị Thượng đế đày xuống hạ giới. Có lúc chán chường trước cảnh đời nhiễu nhương, đen bạc, thi sĩ than thở:Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,Trần thế em nay chán nửa rồi,Cung quế đã ai ngồi đó chửa?Cành đa xin chị nhắc lên chơi.(Muốn làm thằng Cuội).Có khi cao hứng, thi sĩ còn mơ lạc bước vào chốn Thiên Thai, được gặp gỡ những giai nhân như  Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Quý Phi… đàm đạo văn chương với Đoàn Thị  Điểm,  Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Còn lần này thì thi sĩ đã được mời lên tận thiên đình để đọc thơ Hầu Trời !Qua bài thơ  này, Tản Đà đã mạnh dạn thể  hiện“cái tôi”cá nhân – một“cái tôi”ngông  nghênh, phóng túng lạ  kỳ! Đó cũng là cách thể  hiện ý thức về  tài năng, giá trị  đích thực của bản thân và khao khát được khẳng định mình giữa cuộc đời. Có thể tóm tắt nội dung  bài thơ  như  sau: Đêm khuya thanh vắng, thi sĩ buồn nên đun nước pha trà uống rồi cất  tiếng ngâm văn.Tiếng ngâm sang sảng vọng tới trời cao. Hai tiên nữ  xuống truyền lệnh  Trời đòi thi sĩ lên hầu chuyện. Thi sĩ được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc văn thơ. Trời và chư tiên hết lời khen ngợi, tán thưởng. Trời truyền hỏi danh tính, thi sĩ kể lể tình  cảnh khốn khó của kẻ  theo đuổi nghề  văn dưới hạ  giới. Trời an  ủi, khuyên nhủ, thi sĩ  cảm kích lạy tạ ra về. Cuối cùng là cuộc chia tay đầy xúc động của thi sĩ với Trời và chư tiên.Cách vào đề  của bài thơ  khá thú vị, khiến người đọc cảm nhận được tài hư  cấu nghệ thuật độc đáo và lối dẫn dắt rất có duyên của Tản Đà:Đêm qua chẳng biết có hay không,Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòngThật hồn! Thật phách! Thật thân thể !Thật được lên tiên – sướng lạ lùng.Giấc mơ đêm qua mà thi sĩ là người trong cuộc cũng không biết rõ là có hay không, thực  hay hư. Nếu là mơ thì ắt hẳn không thể có thực; nhưng mọi chi tiết, hình ảnh vẫn hiện ra  rõ ràng, nên không thể  không tin. Bởi vậy mà  ở  ba câu tiếp theo, thi sĩ cả  quyết khẳng  định như đang đối thoại với người nghe kể vậy. Ngữ điệu mạnh mẽ làm nổi bật yếu tố thật:Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên – sướng lạ lùng. Tất cả đã khơi gợi sự hiếu kỳ và cuốn hút người nghe nhập cuộc.Ở những khổ thơ tiếp theo, thi sĩ đã kể về tình huống mình được Trời mời lên Thiên đình:Nguyên lúc canh ba nằm một mình,Vắt chân dưới bóng ngọn đèn xanh.Nằm buồn, ngồi dậy đun nước uống,Uống xong ấm nước, nằm ngâm văn.Chơi văn ngâm chán lại chơi trăngRa sân cùng bóng đi tung tăngTrên trời bỗng thấy hai cô xuốngMiệng cười mủm mỉm cùng nói rằng:– “Trời nghe hạ giới ai ngâm nga,Tiếng ngân vang cả sông Ngân Hà!Làm Trời mất ngủ, Trời đương mắngCó hay lên đọc, Trời nghe qua”.Ước mãi bây giờ mới gặp tiên!Người tiên nghe tiếng lại như quen!Văn chương nào có hay cho lắmTrời đã sai gọi thời phải lên.Theo hai cô tiên lên đường mâyVù vù không cánh mà như bay.Cửa son đỏ chói, oai rực rỡThiên môn đế khuyết như là đây!Vào trông thấy Trời, sụp xuống lạyTrời sai tiên nữ dắt lôi dậy.Ghế bành như tuyết vân như mâyTruyền cho văn sĩ ngồi chơi đấy.Tình huống câu chuyện bắt đầu từ Tiếng ngân vang cả  sông Ngân Hà của thi sĩ dưới hạ giới làm cho Trời mất ngủ. Rõ ràng, cái duyên may được lên hầu Trời gắn liền với câu  chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của thi sĩ. Dường như  tác giả  muốn  nói rằng câu chuyện tuy không có thật nhưng lại rất thật về  tâm sự  và nỗi niềm của  mình. Chuyện bịa mười mươi mà xem ra rất tự nhiên, hấp dẫn.Khi chư  tiên đã tề  tựu đông đủ, Trời liền:Truyền cho “văn sĩ đọc văn nghe!”. Được lời như  cởi tấm lòng, thi sĩ vội vàng cung kính:“Dạ  bẩm lạy Trời con xin đọc”. Thi sĩ đọc văn thơ  của mình với tất cả  sự phấn khích và thăng hoa của cảm hứng. Có lẽ  chưa bao  giờ thi sĩ lại hứng thú đến như vậy. Không để sót một khoảng chừng trống nào của thời gian, thi sĩ đọc liền một mạch:Đọc hết văn vần sang văn xuôiHết văn thuyết lí lại văn chơiĐương cơn đắc ý đọc đã thíchChè trời nhấp giọng càng tốt hơn.Thi sĩ cao hứng và tự đắc vì có lẽ đây là dịp hiếm hoi để Trời và những chư tiên thưởng thức  thơ  của thi sĩ sông Đà, núi Tản. Thính giả  nghe thơ  cổ  vũ thật nhiệt thành. Các chư  tiên đồng thanh tán thưởng và hồn nhiên bộc lộ sự hâm mộ qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ… Điều đó làm cho cảm hứng trong lòng thi sĩ mỗi lúc một dâng cao:Văn dài hơi tốt ran cung mây!Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡiHằng Nga, Chức Nữ chau đôi màySong Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứngĐọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.Thi sĩ cao hứng tự nhận:Văn đã giàu thay, lại lắm lối.Trời nghe Trời cũng bật buồn cười.Cuộc đọc văn đã khép lại mà ấn tượng sâu sắc của nó khiến:Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:– “Anh gánh lên đây bán chợ trời !”Trời nghe thi sĩ đọc văn đã không tiếc lời khen tặng và những lời khen đó chứng tỏ  Trời  có khả năng thẩm văn, thẩm thơ tinh tế:Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệtVăn trần được thế chắc có ít.Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!Êm như gió thoảng, tinh như sương!Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết.Đây là đoạn thơ thú vị, độc đáo nhất trong bài. Tác giả cố tình mượn lời Trời để  ca ngợi  thơ văn mình. Rõ ràng ý thức về“cái tôi”cá nhân của Tản Đà rất cao và thi sĩ không hề vô  lý khi tự  khen đến thế:Văn đã giàu thay lại lắm lối. Lời văn, khí văn được so sánh với những vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên:như  sao băng, như  mây chuyển, như  gió thoảng, như sương, như mưa sa, như tuyết… Tưởng chừng tinh hoa của núi Tản sông Đà đã được thu cả vào hồn thơ thi sĩ. Đoạn thơ trên đã khai thác tối đa tác dụng của những biện pháp tu từ để thể hiện đầy đủ mọi cung bậc trầm bổng, mạnh mẽ, tinh tế và linh diệu của cảm xúc đang thăng hoa.Tình huống Hầu Trời bất ngờ  quả  đã cho Tản Đà một cơ  hội tuyệt vời để  phô bày tài năng văn chương của mình trước thiên hạ. Thật thú vị  khi tất cả  nhân vật trong câu  chuyện đều có tâm trạng hứng khởi tột độ, từ  thi sĩ đến chư  tiên và nhất là Trời – một  ông Trời khá bình dân trong cung cách cư xử, nói năng. Điều đáng chú ý là thi sĩ chỉ  cao  hứng tột độ như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm với mình mà thôi. Chứ dưới  hạ giới, thi sĩ dễ đâu tìm được người tri âm tri kỉ như vậy?! Lời ban khen của Trời hẳn là  sự thẩm định, đánh giá chính xác nhất, không ai có thể nghi ngờ hay bác bỏ. Đúng là một cách tự khẳng định rất ngông, rất Tản Đà, xưa nay chưa từng có!Người đọc có cảm giác như thi sĩ vô cùng tự hào khi khẳng định và ca ngợi tài năng văn  chương của mình. Chưa có tác giả  nào dám mạnh dạn, công nhiên như  thế. Có lẽ  một cuộc cách mạng về thơ ca thực sự đã được bắt đầu từ chính Tản Đà – thi sĩ được coi là  “cây cầu nối” giữa thơ cũ và thơ mới.Thể theo yêu cầu của Trời, thi sĩ tự xưng tên tuổi và thân thế:– “Dạ bẩm lạy Trời con xin thưaCon tên Khắc Hiếu họ là NguyễnQuê ở Á châu về Địa CầuSông Đà, núi Tản, nước Nam Việt”.Trời ngợ một lúc lâu rồi sai Thiên tào kiểm tra lại:Thiên tào tra sổ xét vừa xongĐệ sổ trình lên Thượng đế trông– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc HiếuĐày xuống hạ giới vì tội ngông”.Lúc ấy, Trời mới phán rằng:Trời rằng: “Không phải là Trời đày,Trời định sai con một việc nàyLà việc “thiên lương” của nhân loại,Cho con xuống thuật cùng đời hay”.Được lời như  cởi tấm lòng, Tản Đà trình bày một mạch những nỗi niềm bức xúc của mình chất chứa bấy lâu nay. Qua lời Trời, Tản Đà nói đến nhiệm vụ  truyền bá thiên  lương mà Trời giao cho, (giải thích để loài người hiểu rằng lương thiện vốn là bản tính  trời sinh). Điều đó chứng tỏ Tản Đà tuy lãng mạn, ngông nghênh nhưng không hoàn toàn  thoát li hiện thực mà vẫn có ý thức trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc  đời. Đấy cũng là một cách tự khẳng định mình.Cảm hứng chủ đạo của bài thơ  là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong đoạn thơ  dưới đây,  thi sĩ lại sử dụng bút pháp tả thực cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết:– “Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khóTrần gian thước đất cũng không cóNhờ Trời năm xưa học ít nhiềuVốn liếng còn một bụng văn đó.Giấy người mực người thuê người inMướn cửa hàng người bán phường phố.Văn chương hạ giới rẻ như bèoKiếm được đồng lãi thực rất khó.Kiếm được thời ít tiêu thời nhiềuLàm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu.Lo ăn lo mặc hết ngày thángHọc ngày một kém tuổi ngày caoSức trong non yếu ngoài chen rấpMột cây che chống bốn năm chiềuTrời lại sai con việc nặng quáBiết làm có được mà dám theo”.Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về  văn chương và nghề  văn, tuy  vậy người đọc vẫn có thể  hình dung ra phần nào về  nội dung của hoạt động tinh thần  đặc biệt này. Đối với Tản Đà, văn chương không còn đơn thuần là một khái niệm tinh thần cao siêu mà đã trở thành một nghề kiếm sống như bao nghề khác, có người bán kẻ mua và thị trường văn chương cũng hết sức phức tạp. Vì thế  mà nhà văn, nhà thơ  không dễ thành công.Tản Đà đã vẽ  ra một bức tranh hiện thực trần trụi, nghiệt ngã về  nghề  văn bằng ngôn  ngữ  đời thường. Đó là cảnh sống nghèo khổ:Trần gian thước đất cũng không có; thi sĩ đành phải mưu sinh bằng công việc viết văn, làm thơ và xuất bản mà vốn liếng chẳng có gì   ngoài   ngòi   bút:Giấy   người   mực   người   thuê   người   in,   Mướn   cửa   hàng   người   bán phường phố.Người nghệ  sĩ phải cam chịu cảnh:Văn chương hạ  giới rẻ  như  bèo, Kiếm  được đồng lãi thực rất khó, Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều, Lo ăn lo mặc hết ngày  tháng… Kể đến đây, cảm xúc của thi sĩ chợt ngậm ngùi, chua chát, khác hẳn với cảm xúc  trữ tình bay bổng, đắc ý khi đọc thơ cho Trời nghe.Tất cả những điều  ấy đã hiện ra nhiều lần trong thơ văn Tản Đà, một thi sĩ tài hoa hơn  người mà cả đời phải sống trong tình cảnh nghèo khổ, quẫn bách:Hôm qua chửa có tiền nhà,Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào.Đi ra rồi lại đi vào,Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ.Về cuối đời, ông từng phải chuyển qua nghề xem tướng số để  kiếm ăn sống lay lắt qua ngày; rồi mở  lớp dạy Hán văn, quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng, ông chết trong cảnh túng bấn, cơ cực rất thương tâm!Giấc mơ  Hầu Trời phải chăng là biểu hiện tha thiết, mãnh liệt của khát vọng được khẳng định tài năng của thi sĩ giữa chốn văn chương hạ giới rẻ như bèo và thân phận của  người sáng tạo bị xã hội rẻ rúng, khinh khi. Vậy thì chỉ có thể lên thiên đình thi sĩ mới có thể tìm được tri âm tri kỉ, mà chuyện này chỉ có thể xảy trong giấc mộng mà thôi ! Dường  như Trời cũng thấu hiểu nỗi niềm bức xúc của thi sĩ nên chân thành khuyên nhủ:Rằng: “Con không nói Trời đã biếtTrời dẫu ngồi cao, Trời thấu hếtThôi con cứ về mà làm ănLòng thông chớ ngại chi sương tuyết!”.Cuộc chia tay giữa thi sĩ với Trời và chư  tiên diễn ra quyến luyến và xúc động. Ngày đã  rạng, tiếng gà xao xác gáy. Thi sĩ tỉnh mộng nhưng  ấn tượng về cuộc hầu Trời vẫn còn  nóng hổi khiến thi sĩ bâng khuâng tiếc nuối và ao ước đêm nào cũng được lên thiên đình để hầu Trời.Câu chuyện về cuộc đọc văn Hầu Trời và những chư tiên đã phản ánh khá rõ tâm hồn và tính  cách của Tản Đà – một thi sĩ ngông và hay sầu mộng. Đó là một Tản Đà ý thức rất rõ về tài năng của mình, dám đàng hoàng, công khai thể hiện và khẳng định một cách tự hào, tự đắc về  cái tài văn chương hơn người  ấy. Thi sĩ chẳng ngần ngại tự  khen mà còn mượn những lời tán dương của Trời cùng những chư  tiên để  đề  cao thơ  văn mình. Điều đó xuất  phát từ niềm hãnh diện của một hồn thơ đã hấp thu được linh khí của sông Đà, núi Tản.  Trong một bài thơ tự vịnh, Tản Đà đã kiêu hãnh viết:Vùng đất Sơn Tây nảy một ông,Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.Núi Tản sông Đà ai hun đúc,Bút thánh câu thần sớm vãi vung…“Cái tôi”đó cũng thật ngông khi dám tìm lên tận thiên đình để  khẳng định tài năng của mình trước những chư tiên và Ngọc Hoàng thượng đế!Thái động ngông trong văn chương chính là phản  ứng của những nghệ  sĩ tài hoa, có cá tính mạnh mẽ, không chịu trói mình trong khuôn khổ  chật hẹp có sẵn.Ngông cũng là thái độ của những người trí thức có nhân cách cứng cỏi, quay sống lưng ngoảnh mặt trước một xã hội bất công, nhiễu nhương mà họ  không chấp nhận. Ngông trong văn chương bao giờ cũng gắn liền với tài hoa và nhân cách của người cầm bút. Tản Đà không phải là một trường hợp cá biệt trong văn học Việt Nam mà trước ông đã có quan Thượng Nguyễn Công Trứ với:Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng, ngẩng cao đầu thách thức:Trong triều  ai ngất ngưởng như ông?Và chửi thói đời xấu xa bằng một câu thề như dao chém đá:Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo… Tú Xương thì chửi thẳng  vào mặt cái xã hội thối nát, hòn đảo điên:Thiên hạ  xác rồi còn đốt pháo, Nhân tình trắng thế lại bôi vôi…và định:Phen này ông quyết đi buôn lọng, Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.Tuy nhiên, cái ngông của Tản Đà có những điểm đặc thù do chịu  ảnh hưởng của buổi giao thời dở Tây dở  ta. Tản Đà phản ứng xã hội bằng thái độ  ngông của một nghệ sĩ tài hoa tài tử. Thái độ ngông nghênh, tự đắc dường như được thi sĩ cố ý phóng đại trong bài  Hầu Trời cốt để gây ấn tượng mạnh cho người đọc. Nhà thơ đánh giá văn mình hay đến  mức Trời và những chư tiên phải hết lời tán thưởng. Như thế tức là dưới hạ  giới, không ai xứng đáng là kẻ tri âm tri kỉ với mình. Tản Đà còn tự nhận mình là một vị trích tiên bị đày xuống hạ  giới vì tội ngông, nhưng lại được Trời trao cho sứ  mệnh cao cả  là truyền bá  thiên lươngcho loài người.Việc nhà thơ thêu dệt nên chuyện Hầu Trời hàm chứa một sự thách thức đối với cái nhìn  đầy thành kiến về bậc thang giá trị của con người trong xã hội tôn thờ đồng tiền, coi nhẹ những giá trị tinh thần. Cái ngông của Tản Đà có nhiều điểm tương đồng với cái ngông của Nguyễn Công Trứ  thể  hiện qua bài Bài ca ngất ngưởng: Ý thức rất cao về  tài năng của bản thân, dám nói giọng bông lơn về  những đối tượng như  Trời, Tiên, Bụt; dám khẳng định“cái tôi cá nhân”vượt ra ngoài khuôn khổ của luân lý, đạo đức Nho giáo.Điểm khác biệt giữa hai người là Nguyễn Công Trứ tuy ngất ngưởng tột bậc nhưng vẫn  giữ:Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, còn Tản Đà lại không coi đó là chuyện hệ trọng. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe thuộc phạm trù văn chương chứ không phải là cái tài “kinh bang tế thế” như Nguyễn Công Trứ. Rõ ràng, thi sĩ Tản Đà đã rũ bỏ  được khá  nhiều gánh nặng trách nhiệm mà thông thường những nhà Nho từ  trước tới nay vẫn tự đặt trên vai mình (Vũ trụ  nội mạc phi phận sự) để  sống thoải mái hơn với quyền tự  do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.Bài thơ  Hầu Trời được viết theo thể  thất ngôn trường thiên khá tự  do về  số  lượng câu; bố cục theo lối tự sự, diễn biến câu chuyện theo trình tự thời gian. Vì tác giả là nhân vật  chính nên cảm xúc bộc lộ tự nhiên, thoải mái và cách kể chuyện rất hóm hỉnh, có duyên.  Ngôn ngữ bình dân và giọng điệu hài hước rất ăn ý, hoà hợp, hỗ  trợ  cho nhau nhằm mục tiêu thể hiện sinh động thái độ  hào hứng của thi sĩ trước một đối tượng đặc biệt đang say sưa  nghe mình đọc văn, ngâm thơ. Quan hệ giữa thi sĩ với Trời và chư tiên xem ra cũng dân dã, thân mật như giữa những người đồng thanh tương khí.Lối kể bịa mà như  thật và nụ  cười hóm hỉnh tạo nên nội dung trữ  tình của bài thơ, giúp người đọc hiểu sâu hơn về con người thi sĩ. Những yếu tố nêu trên là một phần tất yếu  của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện Hầu Trời mà tác giả  hư cấu. Ngôn ngữ trong bài thơ  rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Từ  dùng nôm na, bình dị, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng ý vị:Văn dài hơi tốt ran cung mây! Văn đã giàu thay, lại lắm lối… Trời nghe Trời cũng bật buồn cười… Chư  tiên ao  ước tranh nhau dặn,…  Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, Trời và chư  tiên không có một chút gì là đạo mạo.  Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỗi… bình dân:lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,… Cứ tưởng tượng ra hình ảnh của những đấng  cao siêu mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nghĩnh, rất “người” như thế, ai mà chẳng buồn cười và khâm phục cách kể chuyện tự nhiên, sinh động của thi sĩ Tản Đà. Các đoạn đối thoại và miêu tả phản ứng tâm lý của từng nhân vật đan xen với nhau khiến người đọc có  cảm tưởng mình đang được chứng kiến hoặc tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải,  chia sẻ những phút sung sướng lạ lùng và đắc ý tột bậc của người kể chuyện.Hầu Trời là bài một thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới mẻ về mặt thi pháp, tiêu biểu cho  tính chất giao thời giữa cái mới và cái cũ trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, người  đọc có thể  nhận ra đôi điều về  xu hướng phát triển của thơ  ca Việt Nam trong những  thập niên đầu thế kỉ XX. 

Reply
6
0
Chia sẻ

Video full hướng dẫn Share Link Download Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung ?

– Một số Keyword tìm kiếm nhiều : ” Video full hướng dẫn Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung tiên tiến và phát triển nhất , Share Link Cập nhật Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung “.

Thảo Luận vướng mắc về Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung

Bạn trọn vẹn có thể để lại Comments nếu gặp yếu tố chưa hiểu nghen.
#Bình #luận #về #cái #ngông #của #một #số #nhà #thơ #trong #văn #chương #nói #chung Bình luận về cái ngông của một số trong những nhà thơ trong văn chương nói chung