Mục lục bài viết

Thủ Thuật về Cái chày là gì Chi Tiết

Update: 2022-03-10 08:59:12,Quý khách Cần biết về Cái chày là gì. You trọn vẹn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Tác giả được tương hỗ.

707

Chày cối được cất trong nhà, được rước ra sân đình. Chày cối xuất hiện tại hội hè, cưới xin, tang ma. Buồn vui cùng mọi người.

Chày cối quấn quýt bên nhau. Chung thủy một chày một cối. Hợp tác làm ăn. Đâu cần thì gọi, chày cối ra tay giã cho một trận là đâu vào đấy.

Nhưng cũng luôn có thể có những lúc chày cối bị chia lìa. Anh đường anh, tôi đường tôi. Mạnh ai nấy sống. Làm bánh dày ví dụ nổi bật nổi bật. Chỉ cần trải xôi trên chiếc chiếu buồm dấp ướt, dùng chày cũng bịt chiếu buồm mà giã. Không cần cối. trái lại, xay thóc xay gạo hay xay bột thì chỉ có cối, không cần chày. Giã giò là trường hợp đặc biệt quan trọng hiếm có. Một cối hai chày! Chày cối được phân thành đẳng cấp và sang trọng. Ăn chắc mặc bền có cối đá. Phần đông dùng cối gỗ. Ăn xó mó niêu thì cối đất cũng xong. Chày giã thường thì là chày gỗ. Trừ chày tre của dân nghèo và chày đá của một vài ông lang. Đại khái, có mấy loại chày cối lớn nhỏ rất khác nhau: – Lớn nhất, cồng kềnh nhất là cối giã gạo.

Giã ơn cái cối cái chày
Đêm khuya giã gạo có mày có tao
Giã ơn cái nhịp cầu ao

Đêm khuya giã gạo có tao có mày.

Cối chôn dưới đất. Chày được lắp vào đầu một cần gỗ dài hai ba thước. Cần rất nặng, người giã gạo phải đứng lên cần, dùng toàn bộ sức nặng của thân hình để điều khiển và tinh chỉnh cho cần hoạt động giải trí và sinh hoạt lên xuống. Ai cũng… ngại giã gạo một mình. Nhiều người cùng giã thì… vui hơn, đỡ mệt hơn! – Làng An Thái làm giấy cũng dùng một loại cối lớn cồng kềnh khác để giã vỏ dó.

«Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây hồ»

Dân làng giã dó bằng chày máy «xanh sạch sẽ và đẹp mắt». Vận dụng sức bật của một cành tre để nâng chày lên rất cao. – Cối giã giò nhỏ hơn hai loại cối trên. Lòng cối khá sâu, rộng. Giã giò phải là dân «vai u thịt bắp» mới kham nổi. Cả ngày cởi trần «đánh vật», hai tay «múa» hai cái chày nặng chình chịch.

Giã giò con cò biết bay

Xương xông, lá lốt làm chay cho cò. Câu ca dao mới nghe thấy ngộ nghĩnh, thậm chí còn tưởng là có xích míc. Giã giò để làm chay cho cò. Dùng đồ mặn để cúng chay à?

Chữ chay (Việt) là vì chữ trai (Hán) mà ra. Trai nghĩa là ăn chay. Trai tăng là thầy tu ăn chay.

Chữ trai còn tồn tại thêm một nghĩa khác. Trai tiếu là sư làm đàn cầu cúng (Hán Việt từ điển Đào Duy Anh). (Hán Việt tự điển Thiều Chửu chép là chai, chai tiếu).

Làm chay của câu ca dao được hiểu theo nghĩa là làm đàn cầu cúng. Nôm na là làm cỗ cúng. Cỗ cúng của dân gian trọn vẹn có thể là cỗ mặn, không cần phải là cỗ chay. – Cối giã cua, giã vừng, nhà bếp núc hằng ngày tương đối nhỏ, lòng cối chỉ bằng cái bát ăn cơm. Cối bằng đá điêu khắc hay gỗ.

– Nhỏ nhất là cối giã trầu bằng bạc, bằng thau của những cụ ông cụ bà nhà giàu. Cối bỏ túi, cất trong hầu bao, đi dạo mang theo được.

Tháng ngày thấm thoắt tựa chim bay
Ông gẫm mình ông, nghĩ cũng hay.
Mái tóc chòm xanh, chòm lốm đốm,
Hàm răng chiếc rụng, chiếc lung lay.
Nhập nhèm bốn mắt tranh mờ tỏ
Khấp khểnh ba chân dở tỉnh say.
Còn một nỗi này thêm chán ngắt,

Đi đâu dở những cối cùng chày.

              (Nguyễn Khuyến, Than già)

Chày cối của tín ngưỡng, phong tục

Chức năng của chày cối là đâm, giã, nghiền, xay. Ngoài chuyện phục vụ đời sống hằng ngày, chày cối còn xuất hiện trong vài trường hợp đặc biệt quan trọng:

Thời Hùng Vương, nhà nào có người chết thì lấy chày cối ra giã để phục vụ nhu yếu thông tin buồn với làng xóm. Một cách loan báo như loa phát tin của phường xóm hiện giờ.

Chày cối được tín ngưỡng phồn thực dùng làm hình tượng của sinh thực khí đực (chày) và cái (cối). Giã cối tượng trưng hành vi trai gái giao phối. Hội làng được chày cối chủ trì, giúp vui hoạt náo. Giã cối tạo âm thanh rộn ràng, động tác quyến rũ. Kích thích, khuyến khích trai gái múa hát, tỏ tình(1).

Đời sau, không biết từ lúc nào, tín ngưỡng phồn thực chày cối bị nõn nường thay thế. Nõn (sinh thực khí nam) nường (sinh thực khí nữ) rất trần tục, trần trụi.

Một vài làng xã miền Bắc “quá khích”, cử 18 cặp trai gái rước ba mươi sáu cái nõn nường. Đám rước được một cụ tay nghề cao bản thân đứng vị trí số 1. Cụ màn biểu diễn cảnh nõn nường quấn quýt nhau. Đâm vào, rút ra. Trai gái theo sau múa theo cụ. Dân làng ai cũng thích xem rước nõn nường.

Có người chế diễu: 36 cái nõn nường, cái để đầu giường là 37.

 

Tranh dân gian Oger (1908) có tấm Đón dâu ngoài cổng đã cho toàn bộ chúng ta biết tục giã cối còn xuất hiện cả trong lễ cưới và tục này còn tồn tại ở một số trong những làng đến tận đầu thế kỉ 20.

Hôm làm lễ rước dâu, nhà trai cho đặt sẵn một bộ chày cối trước cổng. Chờ lúc họ nhà gái đến gần thì sai người giã cối đón mừng cô dâu. Giã cối tạo tiếng vang rộn ràng, đồng thời chúc cô dâu sớm có “con bồng con bế” cho vui cửa vui nhà.

Tấm tranh Oger kín kẽ, dí dỏm cho biết thêm thêm nhà trai mong ước cô dâu chú rể niềm hạnh phúc đến độ… chày hăng say đâm vỡ cả cối, chảy toàn nước!

Chày cối trong văn học

Bài Phú đồ ngông của Nguyễn Khuyến có câu:

Lương nguyệt đốn lại nài nhất đệ, bàn mỏng dính bàn dày;

Tiền hương khoa toan bổ đồng môn, thu chày thu cối

Có thể phỏng đoán là Nguyễn Khuyến làm bài Phú đồ ngông trong tầm thời hạn cụ ngồi dạy học, mô tê răng rứa, trong dinh riêng của Hoàng Cao Khải, vào trong năm 1891 – 1893(2).

Ngoài Nguyễn Khuyến ra, vài tác giả (khuyết danh) khác cũng nói tới việc chày cối.

Sách Văn đàn bảo giám có bài Lạc đệ phú, trong số đó có đoạn:

Văn làm tối như mực, đặc như bí, kiếm chác lều kia lều nọ, hỏi một hỏi hai.

Sách quên đặc như thuổng, tối như đêm, nghe hơi câu được câu chăng, viết chày viết cối(3).

Bài Lạc đệ phú còn được chép dưới tựa đề Thi hỏng tự cười mình:

Văn làm thì đặc như bí, dai như đỉa, chạy lều này sang lều khác, vi nhất vi nhị;

Sách thì quên, tối như hũ, mờ như đêm, nghe câu được câu chăng, viết chày viết cối(4).

Bài phú được làm năm nào?

Có thể nhờ vào câu Thuốc Bách tính, đóm diêm (bao diêm), điếu ống… để đoán.

Diêm là tiếng Bắc (trong Nam gọi là quẹt). Ngoài Bắc có diêm từ lúc nào?

Có từ thời gian ngày:

Em là con gái nhà Diêm

Đến tháng lĩnh tiền được bốn đồng hai
Một đồng em làm cho giai
Hai đồng cho mẹ, đồng hai ăn quà.

                (Ca dao ngạn ngữ Tp Hà Nội Thủ Đô)

Nhà Diêm là nhà máy sản xuất làm diêm (Manufacture d’allumettes) của Pháp tại Tp Hà Nội Thủ Đô, nằm tại vị trí nhà máy sản xuất cơ khí Trần Hưng Đạo sau này. Diêm và bao diêm chỉ có sau khoản thời hạn Pháp đặt nền bảo lãnh Bắc kỳ (1884).

Bài phú Lạc đệ hay Thi hỏng tự cười mình được sáng tác sau năm 1884.

Chày cối xuất hiện trong nhiều bài phú, bài vè khác:

Nghề sách mít, lộn phèo lộn phổi, sáo mép chính văn, tập chú, lít nhít lăng nhăng

Giọng văn cùn, viết cối viết chày, múa mồm hậu cổ, tiền đề, lơ chơ lỏng chỏng.

                                    (Khuyết danh, Hỏng thi)

Búi tóc chặt, gật chày gật cối, tát cũng đành dù đem giam trói cũng đành

Trơ mặt dày, đeo mẹt đeo mo, rủa càng mát dẫu bắt lột trần cũng mát

                                    (Khuyết danh, Răn cờ bạc)

Vua Tự Đức bắt dân xây thành, đào hào. Nhân dân ta thán, oán trách nhà vua. Có người bỏ trốn. Bị bắt, bị đánh. Lạy cao lạy thấp

Lạy cối lạy chày

Chúng chẳng tha ngay
Máu bết đầy roi vọt.

             (Khuyết danh, Cái thời Tự Đức)

Thành ngữ có chày cối xuất hiện từ lúc nào?

Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) có chày, có cối nhưng chưa tồn tại thành ngữ nào đả động tới chày cối.

Dictionnaire annamite-français

của Génibrel (1898) có chày. Có Cứng cổ như chày. Rắn như chày. Có cả chầy (cái chày của người Bắc). Vắt cổ chầy ra nước. Chịu chầy chịu cối. Khất chầy khất cối.

Dictionnaire vietnamien-chinois-français

của Gustave Hue (1937) cũng luôn có thể có chầy. Khất chầy khất cối. Nhận chầy nhận cối cho xong việc. Sách khó, đọc chầy đọc cối.

Nếu đúng là bài Phú đồ ngông được làm năm 1891 – 1893 thì trọn vẹn có thể xác lập cụ Nguyễn Khuyến là người thứ nhất đưa chày cối vào văn học. Thành ngữ thu chày thu cối đã mở đường dọn lối cho một loạt thành ngữ chày cối của trong năm tiếp theo.

Tiếng Việt ngày này có:

– Đầu như cối chày máy: Giễu những kẻ hay bị người ta đánh vào đầu (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam).

Giải thích của Nguyễn Lân hơi bất thần.

Đầu như cối chày máy là hình ảnh cái đầu gật gù, cúi xuống ngẩng lên như cái chày giã gạo rất mất thời hạn rồi. Câu nói ám chỉ những kẻ có thói quen gật đầu như chiếc máy. Một thời được vốn để làm ám chỉ mấy ông… nghị gật!

– Khất chày khất cối: nói người dân có nợ không trả được, chỉ hẹn liều hết lần này đến lần khác (Nguyễn Lân).

– Cãi chày cãi cối: chê người cãi liều, không tồn tại lí lẽ thích đáng (Nguyễn Lân). Cố cãi, cãi bừa một cách không tồn tại lí lẽ gì cả (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê).

– Chịu chày, chịu cối: Chê kẻ có nợ không chịu trả (Nguyễn Lân).

Nhưng, thu chày thu cối của Nguyễn Khuyến nghĩa là gì? Tại sao Nguyễn Khuyến không viết chầy cối và lại viết chày cối?

Nội dung mấy thành ngữ được nêu ra đã cho toàn bộ chúng ta biết chày cối có hai nghĩa rất khác nhau.

– Nghĩa thứ nhất là nghĩa đen, mô tả rõ ràng động tác của cái chày máy giã gạo.

Lạy chày (lạy cối) và Đầu như (cối) chày máy mô tả cái đầu cúi xuống ngẩng lên giống cái chày máy.

Còn cối? Cái cối không biết cử động. Không có ai lạy (như) cối, không tồn tại đầu nào là đầu (gật gù) như cối.

Sở dĩ người ta đưa cối vào câu nói là vì câu nói có chày. Tưởng là làm như vậy câu nói sẽ du dương hơn. Không ngờ lại ngọng nghịu, khó nghe.

– Nghĩa thứ hai của chày cối là nghĩa bóng, không dính dáng gì với cái chày cái cối.

Thu chày thu cối, viết chày viết cối, chịu chày chịu cối, cãi chày cãi cối, khất chày khất cối… toàn bộ đều xa lạ với chày cối vốn để làm đâm giã xay nghiền.

Nghĩa bóng của chày cối là liều lĩnh, không tồn tại lí sự. Thí dụ: Làm chày làm cối. Nói chày nói cối. Được cãi chày, thua cãi cối (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức, 1931).

Nhưng, xét cho kĩ thì thu chày thu cối, chịu chày chịu cối, khất chày khất cối không phải là hành vi liều lĩnh, không tồn tại lí sự. Nghĩa bóng của Việt Nam tự điển không đúng cho mấy trường hợp này.

Cần phải đem chày cối, rõ ràng là thu chày thu cối của Nguyễn Khuyến ra bàn thêm.

Tiếng Việt có chầy và cố.

– Chầy là muộn, chậm, lâu, dài.

Lâm Chi lối đi bộ tháng chầy.

Năm chầy, tháng chẳng bao lâu mà chầy (Kiều).

Không chóng thì chầy đồng nghĩa tương quan với Không sớm thì muộn.

– Cố là gắng sức, đưa sức ra nhiều hơn thế nữa thường thì để thao tác gì cho kì được.

Cố nhớ. Ăn cố. Cố đấm ăn xôi.

Người Bắc gọi cái chày là chầy. Chầy (cối) đồng âm với chầy (lâu, dài).

Từ ngày cái chày (viết bằng chữ quốc ngữ) của Huỳnh Tịnh Của và Génibrel được công nhận thì cái chầy bị xếp vào hàng phương ngữ.

Chầy được viết là chày. Thậm chí chầy (lâu, chậm) cũng viết là chày.

Câu văn của Nguyễn Khuyến (bằng chữ nôm) bị diễn dịch sai sang chữ quốc ngữ.

Thu chầy (thu lâu, thu dai dẳng) bị nhầm thành thu chày (thu như… cái chày!).

Có chày thì phải có cối. Có thu chày thì chỉ việc lôi cổ thu cố (cố thu cho bằng được) ra sửa sai… thành thu cối (thu như… cái cối!).

Rốt cuộc, thu chầy thu cố (nghĩa là thu lâu, cố thu) bị hiểu sai, bị chữa bậy thành thu chày thu cối (nghĩa là… không tồn tại nghĩa).

Oan cho cụ Nguyễn Khuyến. Văn nôm của cụ bị đám học trò học trẹt sửa sai thành sai bét.

Tất cả chày, cối của những thành ngữ khác ví như viết chày viết cối (cố viết cho nhiều), khất chày khất cối (cố khất lần cho qua), đọc chầy đọc cối (đọc chậm, nỗ lực đọc)… đều là biến dạng của chầy, cố.

Chày cối vốn là vật dụng hằng ngày quen thuộc của người Việt Nam. Chày cối sánh đôi. Giản dị, trong sáng. Không lôi thôi như sách vở, văn chương.

Từ ngày Pháp xâm chiếm việt nam, ta có thêm hai cái cối ấn tượng. Cái súng cối và cái mũ cối của thực dân. Súng cối là súng mortier gây nhiều tội ác (mortier cũng tức là cái cối). Mũ cối hay mũ cát (casque) bị ta đồng hóa thuận tiện và đơn thuần và giản dị.

Thế kỉ 21…

Nhà nhà dùng máy xay điện. Xay cafe, xay thịt, xay trái cây… Dao quay tít mù. Nháy mắt là xong. Chày cối có rủi ro đáng tiếc tiềm ẩn tiềm ẩn bị xóa sổ.

– Còn lâu mới hết hứa chày hứa cối, tán chày tán cối.

Lyon, 8/năm trước

N.D
(SDB14/09-14)

—————–
(1) Văn Tân, Thời đại Hùng Vương, Khoa Học Xã Hội, 1976.
(2) Thơ văn Nguyễn Khuyến, Văn Học, 1971, tr. 13.
(3) Trần Trung Viên, Văn đàn bảo giám, Mặc Lâm tái bản, 1968, tr. 185.
(4) Phong Châu, Nguyễn Văn Phú hà đông, Phú Việt Nam cổ và kim, Văn Hóa, 1960, tr. 350.  

Reply
4
0
Chia sẻ

Video full hướng dẫn Share Link Download Cái chày là gì ?

– Một số Keywords tìm kiếm nhiều : ” đoạn Clip hướng dẫn Cái chày là gì tiên tiến và phát triển nhất , Chia Sẻ Link Cập nhật Cái chày là gì “.

Thảo Luận vướng mắc về Cái chày là gì

Bạn trọn vẹn có thể để lại phản hồi nếu gặp yếu tố chưa hiểu nhé.
#Cái #chày #là #gì Cái chày là gì